Lý Đại Nguyên

Tình thế tranh giành chức quyền trong nội bộ đảng Việtcộng tiền đại hội XI, hiện bước vào giai đoạn quyết liệt nhất. Điều bất lợi cho Việtcộng là hiện nay họ phải lựa chọn giữa hai thế đứng quốc tế. Một là vẫn trung thành với chủ nghĩa Mác Lê Hồ chết tiệt đễ ngoan ngoãn làm đầy tớ cho quan thầy Trungcộng. Hai là phải dân chủ hóa chế độ để đứng chung hàng ngũ tự phòng thủ với Asean- Hoakỳ- Thế giới. Kể từ Đại Hội 7 đến nay thì vai trò chỉ đạo và đưa đẩy lên chức vụ cầm đầu đảng, phần lớn là nằm trong tay Bắckinh, thông qua các cựu lãnh tụ khóa trước. Nhưng nay tình thế đã khác. Toàn đảng, toàn quân, toàn dân đang dấy lên phòng trào chống giặc Tầu xâm lăng. Quốc tế đang dồn nhiều nỗ lực vào việc Dân Chủ Hoá Việtnam để cùng với Asean và Thế Giới đủ sức ngăn Bành Trướng Trungcộng.

Hai khuynh hướng này đương nhiên phải diễn ra ở kết quả của cuộc xếp sắp vai trò lãnh đạo của Việtcộng trong kỳ đại hội đảng tháng giêng năm 2011 tới. Vì thực tế Cộng đảng đang nắm quyền tại Việtnam. Đến hôm nay có thể cả Tầu lẫn Mỹ đều biết họ đã và đang làm gì với cái đại hội mất hướng này. Nhưng về phía Việtcộng thì vẫn nhắm mắt đấu đá nhau túi bụi, để tranh ghế Tổng Bí Thư thay cho Nông Đức Mạnh, giữa Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, Hồ Đức Việt, Phạm Quang Nghị. Hiện nay Nông Đức Mạnh cũng đang ra sức sắm vai trò của Mười-Anh-Kiệt trước kia, để đưa Nguyễn Phú Trọng, với chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa phế thải, thân Tầu lên làm Tổng Bí Thư, tranh với Nguyễn Tấn Dũng là ngôi sao đang lên trên trường quốc tế, mà lại đang xuống trước mắt người dân vì vụ Bauxite,Vinashin và Tham nhũng . Nên mới có hiện tượng độc đáo tại cái Quốc Hội bù nhìn Việtcộng là Nguyễn Minh Thuyết đòi bỏ phiếu tín nhiệm TT Nguyễn Tấn Dũng và nội các của Dũng. Trong khi đó Trương Tấn Sang, Hồ Đức Việt, Phạm Quang Nghị cũng tăng cường tranh thủ trong nội bộ với những đòn ngầm hung hãn.

Đột nhiên, ngày 10/11/2010, một cuộc tập trận chống khủng bố quy mô lớn, với sự tham gia của đặc nhiệm hải quân, lục quân, không quân, bộ binh, thiết giáp...gồm cả công an, có hơn một ngàn binh lính vũ trang tham dự, diễn ra tại khu vực cầu Chương Dương, trên sông Hồng, ngay thủ đô Hànội. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của bộ trưởng Quốc Phòng, đại tướng Phùng Quang Thanh, bộ trưởng Công An, đại tướng Lê Hồng Anh. Bản tin báo Tuổi Trẻ cho biết: “Bộ Công An và Bộ Quốc Phòng đã tổ chức diễn tập trên sông Hồng chống tổ chức VT”. Hai chữ VT đốì với người trong nước thì chẳng ai biết nó là cái gì. Dư luận quốc tế cũng không thèm để ý. Còn người Việt hải ngoại thì cho đây là trò hề, sản phẩm tưởng tượng của Việtcộng. Người biết truyện thì coi đó là việc ‘dùng đại bác bắn ruồi’, để che dấu một âm mưu khác.

Thế rồi có tin về nhân vật số 2 của bộ Quốc Phòng Việtcộng, thượng tướng Nguyễn Khắc Nghiên, Tổng Tham Mưu quân đội, thứ trưởng QP đột nhiên qua đời vào ngày 13/11/2010, ở tuổi 59. Tướng Nghiên từng giữ vai trò ‘đối ngoại an ninh’. Theo BBC, tướng Nghiên “từng phát biểu, có vẻ thân tướng Giáp”. Nhớ lại, hồi năm 1986, hai tướng giữ chức Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội là Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn cũng theo nhau từ trần đột ngột trong cùng năm đó, dẫn tới việc tướng Đoàn Khuê, rồi Lê Đức Anh nắm trọn quân đội. Buộc dư luận phải hiểu đang có biến cố đặc biệt nào đó đã diễn ra trong nội bộ quân đội. Lẽ đương nhiên một viên Tổng Tham Mưu quân đội, người trực tiếp điều hành quân lực qua đời, dù là ở tình huống nào thì cũng phải có người khác lên thay. Xem ra quyền lực đang được tập trung trong tay tướng Phùng Quang Thanh, người chỉ đạo cuộc diễn tập trận chiến trên đầu Bộ Chính Trị ở ngay thủ đô Hànội.

Dư luận chưa quên, biến cố Thái Bình trước đại hội đảng kỳ VIII năm 1997, công an bất lực, quân đội được viện cầu tới thu dọn đấu trường, tạo thế cho tướng Lê Khả Phiêu lên nắm chức Tổng Bí Thư, nhưng rồi chỉ một khóa, Bắckinh đã xuống tay hạ bệ Phiêu, vì họ biết rõ, Phiêu đã đi ngầm với Mỹ để Việtnam được hưởng quy chế Thương Mại Bình Thường Vĩnh Viễn- PNTR trước Tầu. Tuy Lê Khả Phiêu đã chịu khuất phục Bắckinh không dám ký với Mỹ trước quan thầy. Nhưng Tầu vẫn chẳng tha, dùng 3 viên cố vấn ‘tối om’ là Đỗ Muời, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt hợp tác đánh Phiêu. Nhưng người quyết định cuối cùng hẫt cẳng Lê Khả Phiêu lại là tướng Phạm Văn Trà bộ trưởng Quốc Phòng.

Xem vậy, chuyến này, dù Phùng Quanh Thanh chưa đủ sức vận dụng quân đội làm hậu thuẫn để ngồi vào chức Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch Nước, để hợp nhất Đảng và Nhà Nước vào làm một, chấm dứt 2 hệ thống Đảng Lãnh Đạo, Nhà Nước Quản Lý để biến Đảng Cộng Sản Độc Tài Toàn Trị Vô Trách Nhiệm, thành Chính Đảng Cầm Quyền, chịu sự chế tài trước Luật Pháp Quốc Gia, như ở thế giới hiện nay, thì Phùng Quang Thanh cũng đang có tư thế nắm được quyền bình định nội bộ đảng. Nếu Việtcộng vẩn duy trì chế độ Đảng lãnh đạo, Nhà Nước quản lý với thứ “Tam Đầu Chế”: Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Nước, Thủ Tướng như hiện nay, hay là “Ngũ Đầu Chế” để giàn hòa cuộc tranh giành đang diễn ra, mà Nguyễn Phú Trọng làm tổng bí thư. Nguyễn Tấn Dũng làm chủ tịch nước, Trương Tấn Sang làm thủ tướng, Hồ Đức Việt thường trực bí thư, Phạm Quang Nghị chủ tịch Quốc Hội. Hoặc là thay đổi vị trí giữa năm người này với nhau thì đó là thảm hoạ cho đất nước.

Vì dù Trungcộng không còn đủ tư thế trực tiếp ra lệnh cho lãnh đạo Việtcộng, như từng ra lệnh cho Nông Đức Mạnh và bè lũ nữa. Nhưng với một bày lãnh đạo vừa tham lam, vừa thiển cận, vừa dốt nát. Hèn yếu trước ngoại địch, mà tàn nhẫn với đồng bào như: Nguyễn Phú Trọng chỉ có tầm nhìn lạc hậu Mác-Lê-Hồ. Nguyễn Tấn Dũng chỉ có khả năng ‘hoạt đầu’ che chắn. Trương Tấn Sang thì thủ đoạn vặt vãnh. Hồ Đức Việt và Phạm Quang Nghị chỉ là loại theo xuôi. Không có ai đủ tầm vóc lãnh tụ để lèo lái con thuyền Việtnam trước cơn sóng dữ của thời thế. Không có người đại chí lo cho Dân, cho Nước để đảm nhận vai trò chính quyền chuyển tiếp, bằng những công trình Dân Chủ Hoá Chế Độ. Tự Do Hoá Xã Hội, Tư Hứu Hóa Ruộng Đất…nhằm khơi dậy tiềm năng Văn Hóa Dân Tộc trong toàn dân, để Quốc Gia Chủ Động gia nhập tiến trình Toàn Cầu Hoá kinh tế và Dân Chủ Hóa toàn cầu. Trungcộng chỉ mong có thế, để Việtnam vĩnh viễn là một nước lạc hậu, nghèo nàn nằm sát hông Trungcộng. Nếu Việt nam vẫn ở trong tình trạng nêu trên, thì dù Hoakỳ và thế giới có đổ tiền của, năng lực vực dậy Việtnam, để hy vọng thành những Con Rồng Châu Á thì cũng hoài công, vì bản chất của Việtcộng trước sau gì cũng chỉ là Loài Dun. Đã đến lúc toàn dân, toàn quân phải lên tiếng khẳng định, mình không phải đồng loại với Việtcộng.

* Little Saigon ngày 23/11/2011.

 

Lý Đại Nguyên

Nữ ngoại trưởng Hoakỳ Hillary Clinton đã có mặt tại Việtnam hôm 22/07/2010, mở đầu chuyến công du, đánh dấu kỷ niệm 15 năm Việt-Mỹ thiết lập quan hệ ngoại giao và tham dự Diễn Đàn Hợp Tác An Ninh ASEAN. Lên tiếng với báo chí sau cuộc gặp với người tương nhiệm về phía Hànội là Phạm Gia Khiêm. Bà nói: “Việtnam với một dân số năng động và người dân thực độc đáo – đang trên đường trở thành một quốc gia vĩ đại với tiềm năng vô biên – đó là một trong những lý do khiến Hoakỳ bày tỏ quan ngại về vấn đề nhân quyền với phía Việtnam”. Bà Clinton bày tỏ mối quan ngại của Hoakỳ về thái độ mà bà gọi là “không khoan dung” với những người bất đồng chính kiến như: “Những vụ tống giam những người đấu tranh cho dân chủ, những hành động tấn công vào một số nhóm tôn giáo, hay việc đàn áp một số Websites trên mạng internet”. Sau bữa ăn trưa với các doanh nhân Việt và Mỹ bà Clinton đã trở lại đề tài này, Bà nhắc đến các khác biệt sâu đậm giữa Việtnam và Hoakỳ trên vấn đề tự do chính trị. Bà xác định là “Hoakỳ sẽ thúc dục Việtnam nỗ lực nhiền hơn nữa trong vìệc bảo vệ quyền tự do cá nhân”.
 
Phạm gia Khiêm gượng gạo chống đỡ rằng: “Khái niệm nhân quyền bắt nguồn từ đặc thù văn hóa và lịch sử của mỗi nước”. Đúng là láo toét! Văn hóa và lịch sử Việtnam đâu có dậy kẻ cầm quyền khủng bố đàn áp dân chúng, tước đoạt quyền tự do lựa chọn của công dân, cướp đoạt tài sản đất đai của toàn dân, như bọn Việtcộng đang làm hiện nay. Văn hóa dân tộc Việtnam lấy Con Người làm cứu cánh, cho nên đã bao phen “bỏ đất giữ dân”, mở ra các đợt di cư kỳ vĩ, cũng như các cuộc đấu tranh dựng nước, giữ nước kiêu hùng để mưu tìm độc lập, tự do, hạnh phúc thực sự cho giống nòi Lạc Việt. Văn Hóa và Lịch Sử Việtnam đặt gía trị Con Người linh hơn Vạn Vật. Chỉ có bọn Việtcộng mới hạ thấp giá trị Con Người xuống hàng Duy Vật, nhằm cướp mất nhân quyền, hèn hoá toàn dân, bắt làm nô lệ cho bọn cầm quyền. Rồi bọn cầm quyền lại làm tay sai cho các Đế Quốc Cộng Sản đàn anh trước kia, và rồi hậu quả đến ngày nay đảng cộng sản và nhà cầm quyền Việtnam vẫn đang bị bọn Bành Trướng Bắc Kinh khống chế, buộc phải ngậm miệng để cho Trungcộng tiến chiếm Hoàngsa, Trườngsa và toàn cõi Biển Đông.
 
Từ đó Trungcộng đã ngang nhiên xác định khu vực này là “vùng quyền lợi quốc gia thiết thân” của họ, như Đàiloan, Tâncương, Tâytạng. Khiến cho các nước ASEAN lần thứ 43 quyết định: “Mở rộng Hội Nghị Thượng Đỉnh Đông Á, mời Hoakỳ và Nga tham gia. Đó là mong muốn tăng cường quan hệ với Washington và Moscow”. Tuy nghị trình của Diễn Đàn ARF vì có mặt của Dương Khiết Trì, bộ trưởng ngoại giao Trungcộng nên không thấy nêu ra vấn đề ‘Tranh Chấp Biển Đông’, nhưng trong cuộc họp chính thức ngày 23/07 tại Hànội, ngoại trưởng Mỹ Clinton đã phát pháo lệnh về Biển Đông. Bà nhấn mạnh đến quyền tự do lưu thông trên Biển Đông. Với tư cách Ngoại Trưởng Hoakỳ, bà Hillary Clinton tuyên bố: “Vì quyền lợi của quốc gia, Hoakỳ mong muốn thấy các quốc gia liên quan đến vụ tranh chấp chủ quyền ở Hoàngsa và Trườngsa giải quyết với nhau bằng đường lối ôn hòa, tôn trọng các điều khoản được ghi trong công ước về biển và lãnh hải do Liên Hiệp Quốc soạn thảo”. “Hoakỳ không ủng hộ bất kỳ tuyên bố chủ quyền quần đảo này của bất cứ nước nào, nhưng khu vực Châu Á Thái Bình Dương gắn kết với nhau bằng đường biển, do đó hòa bình và an ninh trên biển, cũng như an toàn hàng hải là điều rất quan trọng”. Hiệp Hội các nước Đông Nam Á đã ra tuyên bố chung là. “Vấn đề Biển Đông đã được các ngoại trưởng ASEAN đặc biệt chú ý dành hẳn một phần riêng cho hồ sơ trong một thông cáo. Khẳng định lại tầm quan trọng của Tuyên Bố Về Ứng Xử Của Các Bên Ở Biển Đông -DOC- với tư cách một văn kiện mang tính cột mốc giữa ASEAN và Trungquốc”. “Chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc các bên tôn trọng tự do hàng hải và hàng không bên trên Biển Đông, như đã được quy định trong các nguyên tắc đã được thừa nhận của luật pháp quốc tế”.
 
Đến đây thấy được rằng Hoakỳ và các nước Đông Nam Á hoàn toàn ủng hộ “Chiến Lược Quốc Tế Hóa cuộc tranh chấp Biển Đông của Việtnam, bằng cách lôi kéo nhiều nước khác nhập cuộc, buộc Trungcộng phải chấp nhận đàm phán trong các diễn đàn đa phương, thay vì chủ trương nói chuyện song phương của Trungcộng. Tại Hội nghị, Dương Khiết Trì bị rơi vào thế đơn độc, đã yếu ớt nhắc lại rằng: “Tranh chấp không nên được quốc tế hóa”. Có nghĩa là cứ để Trungcộng một mình tranh chấp với từng nước cho dễ nuốt. Sau đó Dương Khiết Trì được Nông Đức Mạnh, tổng bí thứ đảng cộng sản Việtnam tiếp kiến riêng và đưa ra những lời vuốt ve, hứa hẹn quen thuộc của một tên đàn em thân tín. Bắckinh gay gắt cho là tuyên bố của ngoại trưởng Clinton về Biển Đông là tấn công nhằm vào Trungquốc. Hai ngày sau khi ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton nói: “Giải quyết vấn đề Biển Đông là điều tối quan trọng cho ổn định khu vực” thì bộ trưởng ngoại giao Trungcộng Dương Khiết Trì đưa ra lời cảnh báo có đoạn viết: “Quốc tế hoá chủ đề này thì liệu mang lại được kết quả gì, hay chỉ khiến mọi việc tồi tệ hơn và khó giải quyết hơn mà thôi?”. Họ Dương nhấn mạnh: “Các tuyên bố tưởng là công bằng của bà ngoại trưởng chính là để tấn công vào Trungquốc”.
 
Lời nói của nữ ngoại trưởng Clinton dứt khoát can dự vào Biển Đông, đi đôi với lời tuyên bố của Đô đốc Mike Mullen, chủ tịch Ban Tham Mưu Liên Quân Hoakỳ ngày 23/07/10, rằng: “Trungquốc đã đi theo đường lối ngày càng hung hăng hơn trong vùng biển gần nước họ”, được hậu thuẫn bởi hành động quân sự của bộ Quốc Phòng Mỹ bằng một cuộc tập trận chung giữa Mỹ-Hàn, tại vùng biển Nhậtbản, gọi là “Tinh Thần Bất Khuất” khai diễn đại quy mô. Huy động khoảng 20 tàu chiến, có hàng không mẫu hạm USS George Washington, 200 chiến đấu cơ, có 4 phi cơ tiêm kích Raptor F-22, với 8.000 binh sĩ. Cả Hoa Thịnh Đốn và Hán Thành đều nhấn mạnh, cuộc tập trận kéo dài từ 25 đến 28/07/10 lần này là một thông điệp mạnh gửi tới nhà cầm quyền Bắc Triều Tiên. Lẽ đương nhiên ngoài việc răn đe Hàncộng, cuộc tâp trận còn là sự dằn mặt Trungcộng nữa. Vì Hàncộng từng lớn tiếng dọa sẽ tiến hành “chiến tranh thần thánh” chống Mỹ và Nam Triền Tiên. Trungcộng thì tỏ dấu vui mừng, đại ý cho rằng: Mỹ đưa hàng không mẩu hạm tối tân nhất lại gần để họ dễ tiêu diệt. Tuy nhiên dù biết cả Bắc Hàn và Trungcộng chỉ đánh võ mồm chứ chưa đủ sức tấn công trực diện với quân lực Mỹ. Nhưng khi Trungcộng loan báo từ 30/06 đến 05/07/10 tập trận tại Đông Hải, thì Mỹ đã điều ba tàu ngầm cực tối tân tới các cảng ở châu Á. Tàu USS Michigan tới Pusan Hànquốc, tàu USS Ohio tới Vịnh Subic Philippines, tàu USS Florida tới Ấn Độ Dương. Tổng số tên lửa của 3 tàu này lên tới 462 chiếc hỏa tiễn Tomahawk, đây là một hỏa lực cực lớn, đủ khả năng làm tê liệt sức tấn công của đối thủ trước mắt. Đến nay bộ quốc phòng Hànquốc cho biết chưa có dấu hiệu bất thường nào từ phía đối phương. 
 
Little Saigon ngày 27/07/2010

- Lý Đại Nguyên-

Trước ngày tổng thống Nga, Dmitry Medvedev sang Mỹ gặp tổng thống Barack Obama để tái khởi mối quan hệ song phương thế kỷ, thì ngày 07/05/2010, ông đã tuyên bố với tờ nhật báo Nga Isvestiai rằng: “Chế độ chính quyền ở Liênxô khi trước không thể diễn tả bằng cách nào khác hơn là một chế độ độc tài toàn trị. Thực không may, đây là một chế độ đàn áp các quyền tự do cơ bản không những chỉ người dân nước mình, mà còn cho nhân dân các nước nằm trong khối Xã Hội Chủ Nghĩa khác, trong gần nửa thế kỷ nay. Và vết nhơ này không thể nào bôi xóa trong lịch sử”. Về việc 70 năm trước, năm 1940, 22 ngàn sĩ quan Balan bị Stalin ra lệnh thảm sát tại rừng Katyn, rồi bị cơ quan an ninh Liênxô bưng bít, bóp méo, mãi sau khi Liênxô sụp đổ, chính quyền Balan mới đưa vụ thảm sát đó ra trước tòa án Nhân Quyền Âu Châu, với những bằng chứng xác thực, và đòi chính phủ Nga phải bồi thường. Nhưng vào tháng 03/2010, Viện Công Tố Quân Sự Nga đã trả lời rằng: “Vụ thảm sát xẩy ra từ năm 1940, tới nay đã vượt qua thời hiệu pháp lý. Nước Nga ngày hôm nay, không thể chịu trách nhiệm cho một chính quyền 70 năm trước”. Tuy nhiên quan điểm của tổng thống Medvedev thì ngược lại. Ông nói: “Nếu hôm nay, nhắm mắt trước những tội ác này, thì trong tương lai, những tội ác như vậy sẽ còn lập lại, ở dạng này hay dạng khác, ở nước này hay nước kia. Vì vậy, thời gian khiếu nại tuy quá xa, nhưng tội ác tày trời như vậy không bao giờ mất thời hiệu. Những người gây tội ác, bất cứ là ai, bất kể thời gian là bao nhiên năm, cũng phải gánh trách nhiệm! Đây là vấn đề trách nhiệm và đạo đức, một sự kiện đáng để cho các thế hệ tương lai rút kinh nghiệm”. Ông cũng tố cáo: “Stalin đã giết dân mình hàng loạt. Ông ta là kẻ sát nhân với  số lượng lớn. Tội ác đó không thể tha thứ được!”. Biết đến bao giờ các lãnh tụ ở Bắckinh mới dám lên án Mao Trạch Đông được như thế? Đến bao giờ các lãnh tụ ở Hànội mới nhận ra sai lầm tai hại của Hồ Chí Minh đã chọn làm tay sai cho Stalin và Mao Trạch Đông?
 
Có lẽ nhận được thông điệp tích cực trên từ tổng thống Nga, Dmitry Medvedev, nên  trong cuộc gặp giữa 2 tổng thống Mỹ, Nga tại Washington ngày 24/06/2010, liền ngay sau cuộc hội đàm tại Tòa Bạch Ốc, tổng thống  Barack Obama nói: “Chúng tôi đã thành công trong việc tái khởi mối quan hệ”. Hai lãnh tụ nhấn mạnh tới việc hợp tác chống khủng bố. Và nhắc lại cam kết chuẩn thuận Hiệp Ước Giảm Vũ Khí Hạt Nhân. Ông Obama đã tỏ ra hết sức thân tình, mời ông Medvedev cùng vi hành tới tiệm bánh mì, thịt xay, khoai tây chiên dùng bữa. Trong lúc những người chứng kiến tỏ ra hết sức ngạc nhiên. Tổng thống Obama cho phái viên hay: “Đất nước chúng ta trở nên ổn định hơn, thế giới an toàn hơn khi Hoakỳ và Nga tâm đầu ý hợp”. Ông nói: “Hoakỳ nay ủng hộ Nga vào tổ chức Thương Mại Thế Giới – WTO”. Đồng thời ông loan báo: “Mascow sẽ cho phép Hoakỳ xuất cảng thịt gà trở lại”. Ông nói thêm: “Vẫn có một số chủ đề mà 2 nước chưa đồng ý với nhau. Đó là Gruzia. một nước thuộc cựu Liên xô. Hai năm trước đây Nga và Gruzia đã đối đầu trong một cuộc chiến ngắn”. Thật sự không có lời minh thệ nào ý nghĩa hơn đối với 2 nước trước đây vốn là kẻ thù không đội trời chung, cho bằng: Ngay sau khi  tổng thống Nga Medvedev vừa rời khỏi nước Mỹ thì An Ninh Hoakỳ liền tóm gọn 11 điệp viên của Nga, tiềm phục thật sâu tại Mỹ. Một người được đóng tiền thế chân, nhưng sau trốn mất. Họ bị đem ra kết án, rồi  trục xuất về Nga, để đối lấy 4 người đã bị Nga kết tội làm gián điệp cho Mỹ, vừa được tổng thống Nga, Medvedev ân xá. Điều đó nói lên những gì? Từ nay Nga Mỹ không còn là kẻ thù phải bí mật rình rập nhau nữa, mà sẽ sống một cách minh bạch, công khai, thẳng thắn trao đổi với nhau, tôn trọng nhau, tôn trọng luật pháp của nhau và công pháp quốc tế. Đến bao giờ Hoakỳ và Trungcộng mới tiến tới mức độ đó?  Đến khi cái chế độ cộng sản chết tiệt biến mất tại Trunghoa, để không ai còn phải gọi là Trungcộng nữa, mà chỉ còn là nước Trunghoa Tự Do Dân Chủ.
Trong  lúc đó Nông Đức Mạnh, tổng bí thư đảng Việtcộng, vội vã sang Nga để gặp tông thống Medvedev, nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế, xây lò nguyên tử, vào hôm 09/07/10. Trong buổi lễ tại Điện Kremli ông Medvedev đã trao huân chương Pushkin cho Nông Đức Mạnh về những đóng góp xây dựng quan hệ song phương. Đây chỉ là hình thức để dấu một dụng mưu là làm sáng lại lá bài “Nông Đức Mạnh” trong cuộc Đại Hội Đảng XI sắp tới, mà vai trò của họ Nông đang đi xuống. Nhớ lại trước đây 10 năm, trong cuộc đấu đá giữa 3 cố vấn tối cao Mười-Anh-Kiệt với Lê Khả Phiêu để đẩy Phiêu khỏi ghế Tổng Bí Thư. Đột nhiên Putin lúc đó là tổng thống Nga chính thức thăm Hànội, cơ hội để cho Nông Đức Mạnh tập họp cánh cựu học viên tại Liênxô cũ lại đón tiếp Putin, tạo thành lực lượng lớn có học trong đảng, hậu thuẫn cho Mạnh để được chọn làm Tổng Bí Thư, Trần Đức Lương chủ tịch nước, Phan Văn Khải thủ tướng, đều là cánh đã học tại Liênxô. Giờ đây nước Nga vừa là bạn mới của Mỹ, vừa là nước bán tàu ngầm, máy bay tối tân cho Việtnam, vừa chấp nhận huấn luyện cho quân đội Việtnam sử dụng những phương tiện chiến đấu trên. Tư thế chính trị và quân sự của Nga đang được nâng cao theo với tiến độ quan hệ quân sự mạnh mẽ giữa Việt với Mỹ trong vùng Đông Nam Á. Có lẽ Nông Đức Mạnh nuôi ý đồ dựa vào thế Nga để cân bằng giữa áp lực của Tàu và Mỹ đối với cuộc chọn ban lãnh đạo mới cho cộng đảng ở Đại Hội XI này chăng?
 
Mới đây dư luận kín kín, hở hở ở trong nước lại rộ lên, nào là Nông Đức Mạnh đúng là con ruột Hồ Chí Minh. Nguyễn Tấn Dũng là con tướng Nguyễn Chí Thanh, anh của Nguyễn Chí Vịnh. Họ đều muốn theo gương họ Kim của Hàncộng và họ Lý tại Tân Gia Ba, thiết lập chế độ độc quyền toàn trị ‘cha truyền, con nối’ tại Việtnam. Dù khóa X trước, Nông Đức Mạnh đã thất bại không đưa được đứa con ruột là Nông Đức Tuấn và tay sai đắc lực của Trungcộng là Nguyễn Chí Vịnh vào Trung Ương Đảng. Theo lệ đảng thì lần Đại Hội này, Tuấn không thể thay cha làm Tổng Bí Thư được. Nhưng nếu điều lệ đảng được thay đổi thì biết đâu con của Nông Đức Mạnh, ‘tự nhận’ là cháu đích tôn Hồ Chí Minh lại chẳng được bầu lên ghế Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch Nước? Nếu đến như vậy thì cái đảng chết tiệt này hết đường sống rồi. Hãy nhìn xem, cuộc chiếu phim Hồ Chí Minh ở Hànội, buổi khai mạc được 24 mống. buổi sau chỉ có 1 khán giả, rạp đành phải trả tiền lại, hủy bỏ luôn cuộc trình chiếu. Thế mà ở Hải Ngoại thì đĩa hình “Sự Thật về Hồ Chí Minh” của Ủy Ban Đòi Trả Lại Tên Saigòn phát hành, được đón nhận nồng nhiệt không kịp in ra và đã được nhận vào Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ. Đảng càng kêu gọi học tập và làm theo gương Hồ Chí Minh, thì càng có nhiều cán bộ cao cấp thực hiện đúng theo ‘kiểu mua vui’ với các cháu ngoan giống “Bác Hồ”, như thầy hiệu trưởng Sầm Đức Xương và Nguyễn Tường Tô, chủ tịch tỉnh Hàgiang ‘vô vàn kính yêu’ thế thì đảng còn kết án mà chi. 

Little Saigon Ngày 13/07/2010

Đại diện toàn quyền của Hoakỳ tại Việtnam, Đại sứ Michael Michalak phát biểu tại cuộc họp báo ở Hànội ngày 29/06/2010, nhân kỷ niệm 15 năm bình thường hoá quan hệ ngoại giao Việt-Mỹ. Rằng: “Hoakỳ cam kết tăng cường mối quan hệ hợp tác toàn diện với Việtnam” và đánh giá: “Chúng tôi tin tưởng rằng, duy trì quan hệ quân sự mạnh mẽ đóng góp vào hoà bình ổn định của khu vực”. Ông cho rằng: “Việtnam củng cố hợp tác quốc phòng với Hoakỳ cho thấy một phần mong muốn hội nhập toàn cầu của Việtnam, nhất là việc gia tăng quan hệ quân sự với các nước láng giềng”. Ông Michalak khẳng định: “Chính quyền của tổng thống Obama không đứng về phe nào đối với các cuộc tuyên bố chủ quyền các đảo ở biển Đông. Nhưng rất quan ngại về vấn đề lưu thông hàng hải tự do, cũng như việc tự do tiến hành các hoạt động theo luật quốc tế ở khu vực biển này”. Ông nêu lên sự kiện là Trungquốc và Asean đã ký kết Tuyên bố Ừng xử trên biển Đông, ông mong muốn mọi tranh chấp ở vùng biển này phải được giải quyết bằng những biện pháp hoà bình.
 
Dịp này ông nhắc lại “Từ năm 1995 đến nay thương mại giữa Hoakỳ và Việtnam đã tăng 3300%. Năm ngoái Mỹ là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất ở Việtnam, thương mại hai chiều đạt tới mức 15.4 tỉ đô la”. Về nhân quyền tại Việtnam, ông nói: “Washington đã cung cấp những khoản tài trợ trị giá 350 ngàn đô la cho các tổ chức phi chính phủ ở Việtnam, để tăng cường dân chủ, thăng tiến xã hội dân sự và chế độ cai trị theo pháp luật, thúc đẩy nhân quyền và nữ quyền”. Ông cho hay : “Hoakỳ và Việtnam vẫn còn khác biệt về nhân quyền, dù lòng tin đã gia tăng”. “Chúng tôi đang tìm cách giải quyết bất đồng này thông qua đối thoại nhân quyền song phương và trong khuôn khổ Liên Hiệp Quốc, cũng như các cuộc trao đổi chính thức và không chính thức với chính phủ Việtnam diễn ra gần như hàng ngày”. “Chúng tôi cũng đã biết về  các bài báo và tin tức về các phần mềm khác nhau để chặn việc truy cập Internet, cũng như nhiều trang web bị chặn”. “Chúng tôi đang tiếp tục thu thập thêm thông tin về việc này”. “Duy trì tự do Internet là điều cần thiết để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việtanm. Bản thân ngoại trưởng Hoakỳ  Hillary Clinton từng khẳng định rằng, việc bảo đảm tự do Internet là một mục tiêu quan trọng đối với chính quyền Hoakỳ hiện nay”. Đại sứ Michael Michalak xác nhận, ngoại trưởng Mỹ, Hillary Clinton sẽ tới tham gia các chương trình song phương cũng như dự Diễn Đàn An Ninh khu vực Asean ARF vào cuối tháng bảy này tại Hànội. Ngoài ra bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Robert Gates cũng có ý định tham dự hội nghị Bộ Trưởng Quốc Phòng Asean mở rộng vào cuối tháng 10/2010.
Theo ký giả Đức Tâm lên mạng RFI ngày 05/07/10, viết về phân tích của Gs Vũ Hồng Lâm- Alexandre Vuving, thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu An Ninh Châu Á Thái Bình Dương-Hawaii thì: “Sự hiện diện của ngoại trưởng Mỹ tại ARF đưa ra hai thông điệp. Thứ nhất là Mỹ coi trọng khu vực Đông Nam Á. Thứ hai, Mỹ coi ARF là một diễn đàn đa phương quan trọng về an ninh khu vực châu Á Thái Bình Dương”. Tóm lại lập trường của Mỹ đối với Việtnam là quyết liệt toàn diện ‘nhập nội’. Về biển Đông, tuy Mỹ tuyên bố đứng ngoài việc tranh chấp chủ quyền biển, đảo trong vùng, không chấp nhận dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp ở biển Đông. Nhưng rất quan ngại về tình hình căng thẳng trên biển giữa Việtnam và Trungquốc. Hoakỳ đã tuyên bố: “Rất quan ngại về yêu sách quá đáng trên biển Đông của Trungquốc, cũng như về những hoạt động gây nguy hiểm của Trungquốc trên biển Đông”. Để đối phó với tình trạng đó, theo Gs Vũ Hồng Lâm, bộ quốc phòng Hoakỳ đã có một chiến lược bao gồm các hướng chính là: “1- Khẳng định sự hiện diện quân sự của Mỹ trong vùng biển Đông, khẳng định vị thế của Mỹ là lực lượng quân sự mạnh nhất trong vùng”. “2- Tăng cường thực thi quyền đi lại tự do của hải quân Mỹ trong vùng”. “3- Tăng cường quan hệ hợp tác quân sự với các nước đối tác trong khu vực ở mọi cấp độ. Các nước đối tác bao gồm 2 đồng minh Philippines và Tháilan, các đối tác khác như Indonesia, Singapore, Việtnam và Malaysia”. “4- Tham gia tích cực vào các diễn đàn an ninh đa phương ví dụ như ARF”.
 
Phản ứng tức thời về cuộc họp báo của đại sứ Mỹ tại Hànội Michael Michalak, Trungcộng triệu tập ngay một cuộc hội nghị ‘song phưong’ cấp cao Việtnam-Trungquốc từ ngày 29/06 đến 03/07/10 tại Bắckinh, gọi là để thoả thuận sẽ cùng giải quyết vấn đề tranh chấp biển Đông một cách đúng mức.  Cuộc họp Ủy Ban Chỉ Đạo Hợp Tác Song Phương Việtnam-Trungquốc lần thứ 4 này, dưới sự chủ tọa của của 2 trưởng đoàn Việtnam là Phạm Gia Khiêm, phó thủ tướng, kiêm bộ trưởng ngoại giao, và trưởng đoàn Trungquốc là Đới Bỉnh Quốc ủy viên Quốc Vụ. Phạm Gia Khiêm lên tiếng: “Việtnam mong muốn cùng Trungquốc giải quyết vấn đề biển Đông một cách đúng mức, dựa trên quan hệ chung giữa 2 nước và tình hữu nghị giữa 2 dân tộc”. Đới Bỉnh Quốc lên lớp: “Hai bên học hỏi lẫn nhau, tăng cường lòng tin và sự hiểu biết để giải quyết vấn đề thương lượng hữu nghị”. Phạm Gia Khiêm cũng gặp Tập Cận Bình phó chủ tịch Trungquốc , người sẽ lên kế vị Hồ Cẩm Đào, để nhận huấn thị.
 
Được biết, Ủy Ban Chỉ Đạo Hợp Tác Song Phương Việt-Trung thành lập ngày 11/11/2006 tại Hànội. Ngày 16/11/06, ủy ban này cho ra đời một website, được nhấn nút kích hoạt Trang Thông Tin Điện Tử Hợp Tác Kinh Tế Thương Mại Việt-Trung, bởi  3 nhân vật chóp bu Trungcộng, Việtcộng là Hồ Cẩm Đào. Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết. Nhưng ngay sau đó, trang website đã đăng nhiều thông tin đứng trên lập trường Trungcộng công khai chống lại Việtnam.  Dư luận Việtnam lên tiếng phản đối quyết liệt, ngày 17/05/2009, nhà cầm quyền Hànội buộc phải chính thức đóng cửa tên miền tiếng Việt website này. Xem ra hợp tác song phương với Trungcộng phần thiệt luôn luôn nằm về phía Việtnam. Nhưng bọn lãnh tụ Việtcộng vốn có quán tính làm tay sai ngoan ngoãn trung thành của Trungcộng, Vì tin tưởng vào sức bảo vệ của Trungcộng để cầm quyền tại Việtnam, Nhất là quá sợ Trungcộng, nên họ chỉ biết cúi đầu tuân theo mệnh lệnh của quan thầy, không dám trái ý. Chính vì vậy mà Trungcộng quyết không chấp nhận giải pháp đối thoại đa phương với các nước trong vùng có liên hệ về biển Đông. Mà chỉ cần quan hệ song phương với Hànội. Nuốt xong biển Đông, nuốt xong Việtnam thì các nước Asean khó lòng cưỡng lại nổi với sức bành trướng của Trunghoa. Mất Đông Nam Á, Hoakỳ sẽ mất thế siêu cường duy nhất. Thế giới không còn đa cực như hiện nay, mà sẽ trở lại lưỡng cực như thời kỳ chiến tranh lạnh. Lúc đó quan hệ giữa Tầucộng và Hoakỳ là quan hệ tranh đấu sống chết.

Theo cựu bộ trưởng quốc phòng Trungcộng Trì Hạo Điền “Đó là định mệnh của lịch sử để cho nước Tàu và nước Mỹ sẽ đi tới sự đối đầu không thể tránh được trên con đường hẹp và đánh lẫn nhau”. “Quả là tàn nhẫn khi giết một trăm triệu người Mỹ. Nhưng đó là con đường duy nhất, mà sẽ bảo đảm chúng ta làm ra được thế kỷ của người Tàu, một thế kỷ trong đó đảng cộng sản Tàu lãnh đạo thế giới”.  Đây chỉ là sản phẩm hoang tưởng của thành phần theo chủ nghĩa Dân Tộc Đại Hán cực đoan, nhằm lên dây cót tinh thần đảng viên và lừa mị quân dân Trunghoa thôi. Hoakỳ vẫn còn dư sức, và đang ngăn chặn điều ác đó ở địa bàn Việtnam.
 
Little Saigon ngày 06/07/2010

-Lý Đại Nguyên-

Từ ngày Việtnam chính thức bước vào sinh hoạt mở rộng trên trường quốc tế, thì cái chế độ “nửa dơi, nửa chuột” Đảng lãnh đạo, Nhà Nước quản lý của Việtcộng tỏ ra quá lạc lõng, làm khó cho các nước Dân Chủ, nhưng lại là một ưu thế đối với Trungcộng. Chính phủ ở các nước Dân Chủ khi giao tiếp với Việtcộng thì chỉ có thể giao tiếp, cũng như ký kết các văn bản pháp lý với Chính Phủ quản lý nắm vai trò thừa hành, chứ không trực tiếp ký với Người Lãnh Đạo đảng là tổng bí thư, vì lãnh tụ đảng Việtcộng trong công pháp quốc tế không phải là người đại diện hợp pháp của quốc gia, mặc dù Hiến Pháp Việt Cộng ở Điều 4 đã tiếm quyền Quốc Dân, để quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộngsản đối với Nhà Nước, nhưng Hiến Pháp và Luật Pháp của Việtcộng lại không quy định Tổng Bí Thư là Nguyên Thủ Qưốc Gia, có quyền lãnh đạo Nhà Nước. Thế nên những văn bản mà các nước Dân Chủ ký với Việtcộng, hay chính phủ Việtcộng ký vào các Công Ước Quốc Tế thường bị Việtcộng không nghiêm chỉnh thi hành. Bởi vì thường bị lãnh đạo đảng lật lọng, xếp xó. Chỉ trừ Trungcộng khi nắm đầu được Tổng Bí Thư Việtcộng rồi thì toàn đảng, chính phủ, quân đội, công an đều phải răm rắp tuân hành. Chính vì thế Việtnam mới từ từ rơi vào vòng nô lệ cho Trungcộng.
Sau ngày Liênxô sụp đổ, hệ thống Cộngsản Quốctế tan rã, sinh hoạt trên chính trường quốc tế mở rộng, sự giao hảo giữa các nước không phân biệt chế độ chính trị nữa, thì Trungcộng đã rút kinh nghiệm bang giao quốc tế, biết chủ động hợp pháp hóa vị thế của Tổng Bí Thư, bằng cách cho kiêm chức Chủ Tịch Nước, kể từ thời Giang Trạch Dân. Họ Giang đã tự xây dựng vị trí lãnh tụ của mình với chủ thuyết “Tam Cá Đại Biểu”. Đến Hồ Cẩm Đào thì đưa ra chủ thuyết “Xã Hội Hài Hòa”. Rồi đảng tiếp tục tạo ra người thừa kế. Loại bỏ chế độ “song trùng” quy về một mối đảng và chính phủ trở thành một, để độc quyền thống trị Quốc Dân và chủ động bang giao Quốc Tế. Mặc dù Việtcộng là học trò trung thành của Trungcộng, nhưng Trungcộng vẫn không để cho Việtcộng tập trung quyền lực giữa đảng và chính phủ, vẫn duy trì chế độ ‘song trùng’ bất lực tại Việtnam, để cho Việtcộng không thể chủ động có thực quyền điều hành đất nước, phát triển kinh tế, ngang hàng, hay qua mặt Trungcộng trên trường quốc tế.
Chế độ ‘song trùng’ trì trệ Việtcộng không những là gánh nặng cho ngân sách quốc gia, phải nuôi 2 hệ thống đảng và chính phủ song hành, còn tạo ra một hệ thống thực quyền mà vô trách nhiệm, tùy tiện tham ô, đứng trên luật pháp, tạo ra luật pháp, thi hành luật pháp, khống chế luật pháp, mà không bị bất cứ thế lực nào chế tài, kể cả công luận. Vì Việtnam hiện nay chỉ có một đảng Việtcộng độc quyền lãnh đạo cả Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp, báo chí, truyền thanh, truyền hình đều nằm trong tay đảng Việtcộng. Đảng lại còn muốn kiểm soát luôn thông tin trên mạng nữa. Đối với Quốc Dân thì đảng Việtcộng hiện nay đã là độc tài toàn trị. Nhưng dù sao cũng tự giới hạn bằng chế độ ‘song trùng’ lưỡng đầu của chính họ. Nội trị tuy tha hồ tùy tiện thao túng chính quyền, luật pháp, kinh tế… Khiến cho chức Thủ Tướng coi về quản lý hành chánh trở thành bù nhìn, không có quyền truất nhiệm viên chức dưới quyền, quyền đó thuộc về tổ chức đảng. Chính vì vậy, mặc dù Nguyễn Tấn Dũng hiện nay là chủ tịch chỉ đạo Ủy Ban Bài Trừ Tham Nhũng Quốc Gia, mà không dám động đến lông chân của bọn tham nhũng gộc. Trong đó lẽ cố nhiên có cả đương sự nữa. Nhưng đối với quốc tế thì vị thế của đảng  không được coi trọng, hoặc cố ý không coi trọng để nâng vai trò đối tác của chính phủ lên ngang tầm với quốc tế.
Đó là lý do khiến Trung Ương Đảng Việtcộng đưa ra chủ trương:  Bí Thư kiêm Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân các cấp. Để nhất thể hóa chức danh Bí Thư và Chủ Tịch, nhằm làm bộ máy cai trị gọn nhẹ, việc điều hành nhanh chóng, kịp thời không bị, chồng chéo, ách tắc. Như vậy, không biết trong kỳ Đại Hội XI này, đảng Việtcộng có dám chơi ngang tầm với quan thầy Bắckinh là để Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch Nước hay không? Hay vẫn chọn một viên Tổng Bí Thư bù nhìn kiểu Nông Đức Mạnh, một Chủ Tịch Nước đần độn như Nguyễn Minh Triết, một Thủ Tướng luồn lọt như Nguyễn Tấn Dũng, để cho 15 ủy viên Bộ Chính Trị thành ‘cá mè một lứa’. Rồi mọi quyết định quan trọng đến vận mệnh dân tộc đều do quan thầy Bắckinh chỉ đạo? Chế độ Việtcộng hiện nay tiếng là: “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”. Nhưng cộng hòa của thứ xã hội chủ nghĩa chết tiệt đó, không phải là thề chế Cộng Hòa Phổ Cập Toàn Dân, trong đó mọi công dân đều có quyền trực tiếp phổ thông đầu phiếu, bầu lên những nhà lãnh đạo chính quyền của mình, mà Việtcộng chỉ áp dụng quy chế “đảng cử, dân bầu” ra Quốc Hội, và Hội Đồng Nhân Dân các cấp bù nhìn của đảng. Thế nên việc đảng chọn Tổng Bí Thư rồi đưa sang Quốc Hội bầu vào chức Chủ Tịch Nước, hoặc đảng bầu Bí Thư, rồi đưa cho Hội Đồng Nhân Dân các cấp thông qua thì quá nhẹ nhàng, không gì trở ngại. 
Nhưng nhiều cựu viên chức cao cấp trong đảng lại muốn đi xa hơn nữa là góp ý “Dân Chủ Hóa đảng”. Một ngày, sau khi kết thúc Hội Nghị lần thứ 12 của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, ông Nguyễn Đình Hương, nguyên Phó Ban Tổ Chức Trung Ương, cho đăng bài viết trên ViệtnamNet rằng: “Muốn chọn người tài đức thì không có cách nào khác hơn là thực hiện dân chủ”. “Dân chủ không áp đặt, không cảm tình thiên vị và không cố chấp là những điều đảng phải làm, nếu muốn có cán bộ tốt cho Đại Hội lần thứ XI”. Ông Hương cũng đưa ra đề nghị: “Nên có một danh sách người có đủ khả năng cho chức vụ Tổng Bí Thư, thay vì chỉ có một người được đề nghị bỏ phiếu thông qua… và không phân biệt vùng miền, từng là một trong những yếu tố quan trọng khi chọn người được cử giữ những vị trí quan trọng ở các kỳ đại hội trước đây”. 
Một đảng gọi là lãnh đạo nhà nước, mà đảng viên không được bình quyền với nhau để ứng cử, bầu cử ra các người lãnh đạo của mình, như từ trước tới nay, thì đảng này chỉ là đảng giặc cướp, không thể gọi là Chính Đảng, hay Đảng Lãnh Đạo được nữa. Vì thế mà những đảng viên tự trọng, còn biết liêm sỉ và giác ngộ được quyền lợi của mình, không những phải đòi Dân Chủ Hóa đảng, mà còn phải có trách nhiệm đòi Dân Chủ Hóa chế độ cho toàn dân nữa mới đúng. Đối với những Người Đấu Tranh cho Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền ở trong và ngoài Việtnam hiện nay, thì tuyệt đối không để bị rơi vào bất cứ một giải pháp nào ở “Giai Đoạn Chuyển Tiếp” này. Vì ngay cả việc “Dân Chủ Hóa Đảng” cũng chỉ là sự Tập Trung Quyền Lực Đảng vào Chính Phủ để thống trị Quốc Dân, nếu Viêtnam chưa có Tự Do Ngôn Luận, Tự Do Tôn Giáo, Tự Do Chính Đảng, Tự Do Nghiệp Đoàn, để Quốc Dân có thực quyền, thực lực tự làm chủ lấy mình, kiểm soát chế độ chính trị và phục hồi chủ quyền đất nước. 

-Lý Đại Nguyên-

Bế mạc hội nghị thứ 12 của Ban Chấp Hành Trung Ương đảng Việtcộng khóa X, ngày 28/03/2010, nhằm hoàn tất các dự thảo văn kiện Đại Hội Đảng XI. Ở đây thấy chỉ toàn là những khẩu hiệu cũ rích, lạc hậu, nhai đi, nhai lại của các lần đại hội trước. Như về việc đề xuất bổ sung, sửa đổi điều lệ đảng, Nông Đức Mạnh tổng bí thư đảng chỉ rõ: 
“phải thấu suốt 3 quan điểm chỉ đạo, trong đó kiên định các nguyên tắc cơ bản về đảng và xây dựng đảng trên cơ sở chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển, thể chế hóa những quan điểm mới có tính nguyên tắc về xây dựng đảng, nhất là quan điểm mới thể hiện trong Cương Lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội." 
Về việc góp ý kiến với Đại hội XI, Nông Đức Mạnh lớn tiếng khẳng định phải: 
“phát huy dân chủ, trí tuệ trong thảo luận, tập hợp đầy đủ, trung thực ý kiến tham gia của đảng viên…”. 
Nhưng kinh nghiệm trước nay cho biết, những ý kiến thực sự mới mẻ, ích quốc, lợi dân, dân chủ hóa đảng và đất nước, đều đã bị Trung Ương khóa trước, liệng bỏ hết. Về công tác nhân sự, Nông Đức Mạnh cho đây là “vấn đề then chốt của nhiệm vụ xây dựng đảng”.

Theo Mạnh: 
“Để có Ban Chấp Hành Trung Ương mạnh, đòi hỏi công tác nhân sự Đại Hội XI, của đảng phải làm sao đạt được những mục tiêu chung là lựa chọn, giới thiệu và bầu được những người không quan liêu, tham nhũng, lãng phí, có năng lực trí tuệ và tổ chức thực tiễn, có tư duy đổi mới, sáng tạo, dám chiụ trách nhiệm vì lợi ích chung, có năng lực tham gia vào việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của đảng, có đủ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao, đoàn kết, có uy tín trong đảng và nhân dân”.
Nếu đem những tiêu chuẩn mà Nông Đức Mạnh nêu ra trên đây để chọn lựa nhân tài cho Đại Hội XI của đảng, thì đố ai tìm được một mống nào. Vì toàn đảng Việtcộng ngày nay từ trên xuống dưới đều đã quái hóa thành bọn độc quyền, tham nhũng, lưu manh, côn đồ, gian dối, bán nước, vô trách nhiệm vì lợi ích chung. Đặt lợi ích cá nhân trên lợi ích đảng, đặt lợi ích đảng trên lợi ích Quốc Dân. Vì Xã Hội Chủ Nghĩa kiểu Mác-Lênin đã thực sự phá sản, Cái mà Việtcộng gọi là “thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” này, hiện nay, bọn Việtcộng đang hăm hở ngụp lặn trong đó, nó đúng là “thời kỳ của tư bản man rợ lạc hậu” ở đầu thế kỷ 19. Thế giới ngày nay đã vượt qua thời kỳ mông muội ấy để tiến tới nền Kinh Tế Thị Trường Tự Do Toàn Cầu Hóa, trong chế độ Dân Chủ Hóa Toàn Cầu, ở đó tất cả các Quốc Gia lớn nhỏ đều có quyền Bình Đẳng Chủ Động tích cực tham gia.

Thực ra ở Việtnam không thiếu nhân tài, nhưng một khi họ đã lỡ rơi vào guồng máy Xã Hội Chủ Nghĩa và bị thứ chủ nghĩa phi nhân, phi luân, phi văn hóa, phi dân tộc Mác-Lê-Hồ của cái đảng độc tài, độc ác, toàn trị, tham nhũng, vô trách nhiệm ‘tẩy não’, hèn hóa đi thành những tên nô lệ vô cảm, mất ý chí, mất khả năng sáng tạo, vô liêm sỉ, mà ích kỷ tàn nhẫn, giống như một bầy ‘khỉ độc’,chỉ biết gườm nhau và nghe lệnh trên theo quán tính, không dám trái ý chủ nhân. Mà chủ nhân là lãnh tụ đảng và trên cao là các lãnh tụ của các nước đàn anh trong thế giới cộng sản. Vì thế Việtcộng hết lệ thuộc Liênxô, rồi quay vể làm tay sai cho Tầucộng, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc, luôn luôn nuôi ý đồ xâm chiếm Việtnam. Chính vì vậy mà ở Việtnam mới thấy, nhiều cựu Ủy Viên Trung Ương, kể cả cựu Ủy Viên Bộ Chính Trị sau khi hết quyền hành mới có ý kiến, sáng kiến đòi đổi mới triệt để, đòi dân chủ hoá toàn diện, đòi quyền tự chủ dân tộc, đòi quan tâm tới người dân bị đảng đầy đọa, đòi phải đề phòng bọn Bành Trướng Bắckinh. Còn khi đương quyền thì hoàn toàn thụ động. Điều này cũng tốt thôi, dù sao con người rồi ra cũng trở lại “Làm Người”, dù đảng có dùng mọi cách hèn hóa họ, biến họ thành những ‘con khỉ độc’. Đây chính là mối nguy tâm phúc của cộng đảng, vì một khi thế nước, lòng dân đã thay đổi, thì đảng viên Việtcộng dù muốn hay không sẽ phải tự cứu lấy bản thân mình, bằng cách ‘tự diễn biến hòa bình’ thôi.

Trước những hành động lấn lướt, ngang ngược, khinh mạn của Tầucộng, trước những sự nhượng bộ hèn mạt của lãnh đạo Việtcộng khóa X, những đảng viên Việtcộng còn lương tri con người, còn tình tự dân tộc, còn nuối tiếc công lao cha anh của họ đã hy sinh vì độc lập dân tộc, chắc đang điểm mặt những tên Việtgian tay sai Tầucộng. Đang được Tầucộng hà hơi tiếp sức, đánh bóng để đưa vào nắm các ghế quyền lực nhất trong đảng tại kỳ Đaị Hội XI này. Theo điều lệ của đảng thì Tổng Bí Thư phải là một Ủy Viện Bộ Chính Trị khóa trước. Chính vì vậy, mà căn cứ vào hành động làm nô lệ cho Tầucộng của 15 Ủy Viên Bộ Chính Trị, người ta cũng dễ nhận ra. Ngoài Nông Đức Mạnh mãn nhiệm, Nguyễn Phú Trọng 2 nhiệm kỳ BCT và Tô Huy Rứa vừa được đưa vào BCT là 2 con gà sáng gía của Bắckinh. Tuy Nguyễn Chí Vịnh nắm cơ quan Tình Bao Tổng Cục ÌI, thuộc quân đội Việtcộng, là trụ cột của Tầucộng, nhưng chưa được vào Trung Ương, nên chỉ có thể nhằm chiếc ghế Bộ Trưởng Quốc Phòng để làm chỗ dựa cho Tổng Bí Thư mà thôi. Lẽ cố nhiên phía Bắckinh cũng còn có những lá bài bí mật khác mà chưa ai biết.

Tuy không lộ liễu như Bắckinh, nhưng Hoa Thịnh Đốn cũng chẳng quên làm nổi bật vai trò của Nguyễn Tấn Dũng thủ tướng Việtcộng. Sáng nay 30/03/2010, tại Hànội, đại diện chính phủ Việtcộng là Lê Đình Tiến cùng với Đai Sứ Mỹ tại Hànội, Michael Michalak, đại diện chính phủ Hoakỳ đã ký kết bản ghi nhớ về hợp tác trong lãnh vực năng lượng hạt nhân. Giải tỏa những lo ngại của Hànội liên quan tới vấn đề an toàn và không phổ biến hạt nhân, đồng thời cũng là một trong những điều kiện cần thiết cho phép các công ty Hoakỳ, như Westinghouse Electric Company tham gia vào các dự án năng lượng hạt nhân tại Việtnam. Nhân dịp này Đại Sứ Mỹ tại Hànội, Michael Michalak cho biết, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ tham dự Hội Nghị Thượng Đỉnh về an toàn hạt nhân vào tháng tới tại Washington, do tổng thống Mỹ, Barack Obama chủ trì, có sự hiện diện của tổng thống Nga, Dmitri Medvedev và nhiều nguyên thủ các nước có nguyên tử khác. Thât là nở mày, nở mặt.

Điều này khiến cho mọi người phải nhớ lạì thời kỳ trước Đại Hội IX, phe Mười- Anh- Kiệt đang ra sức hạ bệ Lê Khả Phiêu, thì tổng thống Nga thời đó là Putin đã xuất hiện tại Hànội, tạo cơ hội cho Nông Đức Mạnh quy tụ các cựu sinh viên du học tại Liênxô, nhằm làm hậu thuẫn để có thế cho Mạnh ngồi vào chiếc ghế tổng bí thư bù nhìn của đảng từ ấy đến nay, nhằm thực hiện kế hoạch hòa hoãn giữa Mỹ và Tầu. Liệu chuyến này nước Nga hợp tác với Mỹ có đưa được Nguyễn Tấn Dũng lên chức tổng bí thư thay Nông Đức Mạnh, hay đây chỉ là ‘con cò gỗ nhằm mổ con cò thật’ của Trungcộng, để từ đó một cuộc ‘Diễn Biến Hòa Bình’ thực sự ngoạn mục tại Việtnam sẽ mở ra? Xin hãy chờ xem!

Lý Đại Nguyên

Từ ngày Việtnam chính thức bước vào sinh hoạt mở rộng trên trường quốc tế, thì cái chế độ “nửa dơi, nửa chuột” Đảng lãnh đạo, Nhà Nước quản lý của Việtcộng tỏ ra quá lạc lõng, làm khó cho các nước Dân Chủ, nhưng lại là một ưu thế đối với Trungcộng. Chính phủ ở các nước Dân Chủ khi giao tiếp với Việtcộng thì chỉ có thể giao tiếp, cũng như ký kết các văn bản pháp lý với Chính Phủ quản lý nắm vai trò thừa hành, chứ không trực tiếp ký với Người Lãnh Đạo đảng là tổng bí thư, vì lãnh tụ đảng Việtcộng trong công pháp quốc tế không phải là người đại diện hợp pháp của quốc gia, mặc dù Hiến Pháp Việt Cộng ở Điều 4 đã tiếm quyền Quốc Dân, để quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộngsản đối với Nhà Nước, nhưng Hiến Pháp và Luật Pháp của Việtcộng lại không quy định Tổng Bí Thư là Nguyên Thủ Qưốc Gia, có quyền lãnh đạo Nhà Nước. Thế nên những văn bản mà các nước Dân Chủ ký với Việtcộng, hay chính phủ Việtcộng ký vào các Công Ước Quốc Tế thường bị Việtcộng không nghiêm chỉnh thi hành. Bởi vì thường bị lãnh đạo đảng lật lọng, xếp xó. Chỉ trừ Trungcộng khi nắm đầu được Tổng Bí Thư Việtcộng rồi thì toàn đảng, chính phủ, quân đội, công an đều phải răm rắp tuân hành. Chính vì thế Việtnam mới từ từ rơi vào vòng nô lệ cho Trungcộng.

Sau ngày Liênxô sụp đổ, hệ thống Cộngsản Quốctế tan rã, sinh hoạt trên chính trường quốc tế mở rộng, sự giao hảo giữa các nước không phân biệt chế độ chính trị nữa, thì Trungcộng đã rút kinh nghiệm bang giao quốc tế, biết chủ động hợp pháp hóa vị thế của Tổng Bí Thư, bằng cách cho kiêm chức Chủ Tịch Nước, kể từ thời Giang Trạch Dân. Họ Giang đã tự xây dựng vị trí lãnh tụ của mình với chủ thuyết “Tam Cá Đại Biểu”. Đến Hồ Cẩm Đào thì đưa ra chủ thuyết “Xã Hội Hài Hòa”. Rồi đảng tiếp tục tạo ra người thừa kế. Loại bỏ chế độ “song trùng” quy về một mối đảng và chính phủ trở thành một, để độc quyền thống trị Quốc Dân và chủ động bang giao Quốc Tế. Mặc dù Việtcộng là học trò trung thành của Trungcộng, nhưng Trungcộng vẫn không để cho Việtcộng tập trung quyền lực giữa đảng và chính phủ, vẫn duy trì chế độ ‘song trùng’ bất lực tại Việtnam, để cho Việtcộng không thể chủ động có thực quyền điều hành đất nước, phát triển kinh tế, ngang hàng, hay qua mặt Trungcộng trên trường quốc tế.

Chế độ ‘song trùng’ trì trệ Việtcộng không những là gánh nặng cho ngân sách quốc gia, phải nuôi 2 hệ thống đảng và chính phủ song hành, còn tạo ra một hệ thống thực quyền mà vô trách nhiệm, tùy tiện tham ô, đứng trên luật pháp, tạo ra luật pháp, thi hành luật pháp, khống chế luật pháp, mà không bị bất cứ thế lực nào chế tài, kể cả công luận. Vì Việtnam hiện nay chỉ có một đảng Việtcộng độc quyền lãnh đạo cả Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp, báo chí, truyền thanh, truyền hình đều nằm trong tay đảng Việtcộng. Đảng lại còn muốn kiểm soát luôn thông tin trên mạng nữa. Đối với Quốc Dân thì đảng Việtcộng hiện nay đã là độc tài toàn trị. Nhưng dù sao cũng tự giới hạn bằng chế độ ‘song trùng’ lưỡng đầu của chính họ. Nội trị tuy tha hồ tùy tiện thao túng chính quyền, luật pháp, kinh tế… Khiến cho chức Thủ Tướng coi về quản lý hành chánh trở thành bù nhìn, không có quyền truất nhiệm viên chức dưới quyền, quyền đó thuộc về tổ chức đảng. Chính vì vậy, mặc dù Nguyễn Tấn Dũng hiện nay là chủ tịch chỉ đạo Ủy Ban Bài Trừ Tham Nhũng Quốc Gia, mà không dám động đến lông chân của bọn tham nhũng gộc. Trong đó lẽ cố nhiên có cả đương sự nữa. Nhưng đối với quốc tế thì vị thế của đảng không được coi trọng, hoặc cố ý không coi trọng để nâng vai trò đối tác của chính phủ lên ngang tầm với quốc tế.

Đó là lý do khiến Trung Ương Đảng Việtcộng đưa ra chủ trương: Bí Thư kiêm Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân các cấp. Để nhất thể hóa chức danh Bí Thư và Chủ Tịch, nhằm làm bộ máy cai trị gọn nhẹ, việc điều hành nhanh chóng, kịp thời không bị, chồng chéo, ách tắc. Như vậy, không biết trong kỳ Đại Hội XI này, đảng Việtcộng có dám chơi ngang tầm với quan thầy Bắckinh là để Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch Nước hay không? Hay vẫn chọn một viên Tổng Bí Thư bù nhìn kiểu Nông Đức Mạnh, một Chủ Tịch Nước đần độn như Nguyễn Minh Triết, một Thủ Tướng luồn lọt như Nguyễn Tấn Dũng, để cho 15 ủy viên Bộ Chính Trị thành ‘cá mè một lứa’. Rồi mọi quyết định quan trọng đến vận mệnh dân tộc đều do quan thầy Bắckinh chỉ đạo? Chế độ Việtcộng hiện nay tiếng là: “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”. Nhưng cộng hòa của thứ xã hội chủ nghĩa chết tiệt đó, không phải là thề chế Cộng Hòa Phổ Cập Toàn Dân, trong đó mọi công dân đều có quyền trực tiếp phổ thông đầu phiếu, bầu lên những nhà lãnh đạo chính quyền của mình, mà Việtcộng chỉ áp dụng quy chế “đảng cử, dân bầu” ra Quốc Hội, và Hội Đồng Nhân Dân các cấp bù nhìn của đảng. Thế nên việc đảng chọn Tổng Bí Thư rồi đưa sang Quốc Hội bầu vào chức Chủ Tịch Nước, hoặc đảng bầu Bí Thư, rồi đưa cho Hội Đồng Nhân Dân các cấp thông qua thì quá nhẹ nhàng, không gì trở ngại.

Nhưng nhiều cựu viên chức cao cấp trong đảng lại muốn đi xa hơn nữa là góp ý “Dân Chủ Hóa đảng”. Một ngày, sau khi kết thúc Hội Nghị lần thứ 12 của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, ông Nguyễn Đình Hương, nguyên Phó Ban Tổ Chức Trung Ương, cho đăng bài viết trên ViệtnamNet rằng: “Muốn chọn người tài đức thì không có cách nào khác hơn là thực hiện dân chủ”. “Dân chủ không áp đặt, không cảm tình thiên vị và không cố chấp là những điều đảng phải làm, nếu muốn có cán bộ tốt cho Đại Hội lần thứ XI”. Ông Hương cũng đưa ra đề nghị: “Nên có một danh sách người có đủ khả năng cho chức vụ Tổng Bí Thư, thay vì chỉ có một người được đề nghị bỏ phiếu thông qua… và không phân biệt vùng miền, từng là một trong những yếu tố quan trọng khi chọn người được cử giữ những vị trí quan trọng ở các kỳ đại hội trước đây”.

Một đảng gọi là lãnh đạo nhà nước, mà đảng viên không được bình quyền với nhau để ứng cử, bầu cử ra các người lãnh đạo của mình, như từ trước tới nay, thì đảng này chỉ là đảng giặc cướp, không thể gọi là Chính Đảng, hay Đảng Lãnh Đạo được nữa. Vì thế mà những đảng viên tự trọng, còn biết liêm sỉ và giác ngộ được quyền lợi của mình, không những phải đòi Dân Chủ Hóa đảng, mà còn phải có trách nhiệm đòi Dân Chủ Hóa chế độ cho toàn dân nữa mới đúng. Đối với những Người Đấu Tranh cho Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền ở trong và ngoài Việtnam hiện nay, thì tuyệt đối không để bị rơi vào bất cứ một giải pháp nào ở “Giai Đoạn Chuyển Tiếp” này. Vì ngay cả việc “Dân Chủ Hóa Đảng” cũng chỉ là sự Tập Trung Quyền Lực Đảng vào Chính Phủ để thống trị Quốc Dân, nếu Viêtnam chưa có Tự Do Ngôn Luận, Tự Do Tôn Giáo, Tự Do Chính Đảng, Tự Do Nghiệp Đoàn, để Quốc Dân có thực quyền, thực lực tự làm chủ lấy mình, kiểm soát chế độ chính trị và phục hồi chủ quyền đất nước.

Lý Đại Nguyên 

Từ đầu năm nay, cuộc bang giao thuận thảo giữa Hoakỳ và Trungcộng bắt đầu rẽ sang khúc ngoặt mới đầy sóng gió. Từ việc chính quyền Mỹ, Obama chính thức ủng hộ quyết định của tập đoàn Google, ngày 12/01/2010. lên án tin tặc của Trungcộng tấn công vào những tài khoản Gmail của các nhà hoạt động nhân quyền ở Trungcộng, và Google để dọa ‘chấm dứt hoạt động tại Trungcộng’. Qua việc chính phủ Mỹ quyết định tái tục bán vũ khí cho Đàiloan. Ngày 30/01/2010, bộ Ngoại Giao Mỹ ra thông báo: “Việc bán vũ khí sẽ góp phần cho an ninh và ổn định giữa Đàiloan và Trungquốc”. Bắckinh lập tức phản pháo: “Sẽ ngưng trao đổi quốc phòng với Washington, xem xét lại việc hợp tác trên nhiều lãnh vực quan trọng, và cấm vận các công ty vũ khí của Mỹ”. Đến việc tổng thống Mỹ, Barack Obama tiếp Đức Đạt Lai Lại Ma lãnh tụ tinh thần Tây Tạng tại Toà Bạch Ốc, ngày 18/02/2010. Mặc dù trước đó giới chức Trungcộng đã cảnh báo tổng thống Mỹ rằng: “Nếu ông gặp Đalai Lama thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền tảng chính trị của quan hệ giữa Trungquốc và Hoakỳ”.
Bắckinh tỏ thái độ hết sức phẫn nộ về việc Mỹ bán vũ khí cho Đàiloan và tổng thống Mỹ chính thức tiếp Lãnh Tụ Tinh Thần Quốc Dân Tây Tạng, họ xem đó là Mỹ trắng trợn can thiệp vào nội bộ của họ. Ngày 23/02/10, phát ngôn viên bộ Ngoaị Giao Trungcộng, Tần Cương tái khẳng định rằng: “Các biện pháp trừng phạt những công ty Mỹ sẽ được xúc tiến, vì vụ Hoakỳ bán vũ khí cho Đàiloan. Ngoài ra Trungquốc còn tức giận về các lập trường với một số vấn đề, trong đó có thương mại, nhân quyền và các cáo buộc tin tặc của Trungquốc nhằm vào các tổ chức của Hoakỳ”. Trong khi, Hoakỳ, Liên Âu, và Nga đang cứu xét việc áp đặt biện pháp chế tài mới lên Iran, vì chương trình hạt nhân của họ thì Trungcộng đã phản đối các biện pháp chế tài đó. Tần Cương nói: “Bắckinh, một đồng minh thân cận của Iran với các quyền lợi dầu khí tại nước này. Đã ghi chú về báo cáo  của Cơ Quan Nguyên Tử Năng Quốc Tế nói rằng Tehran có thể đang chế tạo một đầu đạn hạt nhân”. Tuy nhiên, Tần Cương vẫn cho rằng: “Trungquốc, một trong 5 nước có quyền phủ quyết trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, hy vọng vấn đề hạt nhân của Iran sẽ được giải quyết qua đường lối ngoại giao”. 
Nghĩa là trên chính trường quốc tế, Trungcộng đã khẳng định vị thế “Đối Lập Chính Trị” với Hoakỳ. Liên Âu và Nga trong vấn đề nguyên tử của Iran. Từ đó chỉ còn một bước nhỏ là rơi vào vị thế “Đối Trọng Chiến Lược” với Liên Minh Dân Chủ trên toàn cầu. Tuy nhiên phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao TrungCộng, Mã Tiêu Húc đã lên tiếng bác bỏ lập luận của một ký giả cho rằng: Đường lối cứng rắn của Trungquốc trên trường quốc  tế có thể phản ánh mưu tính đảm nhận vai trò lãnh đạo nhiều hơn trong các vấn đề thế giới. Ông Húc nói: “Trungquốc không hề tìm cách đóng vai trò lãnh đạo thế giới, hiện tại hay trong tương lai cũng vậy”… “Trungquốc không muốn can thiệp vào các vấn đề nội bộ của nước khác, và cũng không cho phép nước nào phá hoại an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của mình”. 
Thế nhưng trong thực tế phũ phàng bỉ ổi thì Trungcộng đang ráo riết thao túng nội bộ của Cộngđảng, nhà cầm quyền Hànội và đe dọa phá hoại an ninh và toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, tài nguyên, thị trường, và văn hóa của Việtnam. Mặc cho uất khí ngất trời, rợp đất của toàn dân, toàn quân và những đảng viên cộng sản còn lương tri và tình tự dân tộc, trước cuộc tàm thực xâm lăng toàn diện của Trungcộng. Bắckinh vẫn ngang nhiên ra lệnh cho nhóm tay sai Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Nguyễn Chí Vịnh… và bọn côn đồ Công An lưu manh, công khai đánh phá các Tôn Giáo, tiếp tục đàn áp Dân Oan, khóa miệng Truyền Thông, dùng tòa án phi pháp để kết án những người đòi Tự Do Dân Chủ. Chúng không cần che dấu chủ trương “Đồng Hóa Việtnam vào với Trunghoa”. Giữa ngày Tết Canh Dần linh thiêng của dân tộc, chúng bắt dân ta phải hát lên bài ca mất nước: “Việtnam Trunghoa, núi liền núi, sông liền sông, chung một biển Đông với tình hữu nghị sáng như rạng đông…Chung một ý, chung một lòng, đường ta đi hồng màu cờ thắng lợi. Nhân dân ta ca muôn năm Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông”… Thôi hết rồi! Bớ, Tô Huy Rứa! Bớ, Cộng Đảng! Còn đâu nữa Dân Tộc Việt Nam Độc Lập ngàn đời anh hùng?
Trong khi đó, Hoakỳ vẫn lừng lững tiếp tục tiến vào Việtnam. Năm 2009, Hoakỳ trở thành nhà đầu tư lớn nhất tại Việtnam, với số vốn đăng ký 9,8 tỷ USD, chiếm 45.6 %  tổng số vốn đầu tư quốc tế vào Việtnam. Hoakỳ và Việtnam đã bắt đầu thảo luận một Hiệp Định Đầu Tư Song Phương sẽ kết thúc trong năm nay. Như vậy vốn đầu tư của Hoakỳ vào Việtnam sẽ càng vững mạnh thêm. Biết rằng, trên nguyên tắc bảo hiểm của nước Mỹ. Vốn đầu tư của Hoakỳ đặt ở đâu thì trách nhiệm an ninh của chính phủ Mỹ phải bảo vệ ở đó. Chính vì vậy mà từ nhiền năm nay, Mỹ đã đặt liên hệ quốc phòng với Việtnam song song với đối tác kinh tế. Quốc phòng tiến vững tới đâu thì vốn đầu tư Mỹ tăng trưởng tới đó. Khi Mỹ trở thành nhà đầu tư số một tại Việtnam thì về mặt quốc phòng cũng phải ở ngang tầm mức đó. Trước sức mạnh quân sự của Trungcộng luôn đe dọa Việtnam, giới quân sự Việtnam rất muốn có vũ khí tối tân vượt trội của Mỹ để phòng thủ, nhưng giới cầm đầu và cơ quan tình báo của Việtcộng vẫn còn nằm trong tay Trungcộng khống chế. Nên Mỹ không dại gì để các loại vũ khí tối tân bí mật của mình bị Việtcộng hiến dâng cho Trungcộng, do đó chỉ hứa cung cấp những khí tài không sát thương, nhường cho Nga việc cung cấp tàu ngầm, máy bay và Ấnđộ giúp việc huấn luyện chuyên môn cho Việtcộng. Điều quan trọng là Mỹ đã mua ngay 1 tỷ USD công khố phiếu của Việtcộng, để họ có đô la chi trả cho Nga.  Làm vậy Việtnam có lý do duy trì được mối quan hệ quốc phòng với Mỹ-Nga-Ấn-ASEAN và cả Trungcộng, trong lúc Trungcộng chưa trở thành “Đối Trọng Chiến Lược”với tất cả.
Xem vậy, cuộc đua giữa Mỹ, Tầu tại Việtnam, tuy bây giờ còn rất êm đềm về mặt nổi, nhưng vẫn quyết liệt trên thực tế về mặt chìm. Trong khi toàn dân, toàn quân quyết chống Trungcộng xâm lăng, thì Trungcộng ra sức dùng tay sai nắm quyền lực đảng, nhân danh đảng cộng sản lãnh đạo Việtnam, để thi hành kế hoạch tàm thực của Trungcộng. Còn Mỹ thì dựa vào sức mạnh đầu tư và khuynh hướng dân chủ hóa của Việtnam, để duy trì phát triển ảnh hưởng. Nếu xu hướng chống Tầu xâm lăng của đảng viên cộng sản lên cao, thì trong kỳ Đại Hội Đảng sắp tới, những kẻ thân Tầu sẽ thất thế. Còn nếu họ vẫn duy trì nổi điạ vị, thì Việtnam sẽ lâm nguy. Đây là việc buộc chính quyền Obama phải tìm ra đáp số cho bài toán “Hoakỳ trở lại Á châu”. 
  • Little Saigong ngày 23/02/2010.

Lý Đại Nguyên

Với nền Nhận Thức Nhân Chủ Nhân Văn thời đại, thì Văn Hóa vừa là nền móng, vừa là nội dung, vừa là hướng vươn tới  Chân, Thiện, Mỹ, luôn luôn thăng hóa của Con Người, của lịch sử Dân Tộc và Thế Giới. Vì thế, Chính Trị là sự suy tư, phán đoán, lựa chọn đường hướng, thế cách, hành xử của Con Người trong mọi lãnh vực sinh hoạt xã hội, quốc gia và quốc tế và còn định hình cho các Chế Độ. Nên hiện nay được gọi là Dân Quyền, hay là Quyền của Công Dân mỗi Quốc Gia. Biểu hiện cụ thể quyền lực chính trị ra ở 3 lãnh vực: Tôn Giáo là Giáo Quyền. Cai Trị là Thế Quyền. Đại Chúng là Dân Quyền. Vậy, Văn Hóa là Thể của Chính Trị, mà Chính Trị là Dụng của Văn Hóa. Nên Con Người sống giữa thế giới vô thường nhị nguyên: “đúng, sai - thiện, ác - tốt, xấu…”, bắt buộc mỗi người phải có quyền tự do, tự chủ và trách nhiệm về sự lựa chọn chế độ xã hội chính trị của mình, để ứng xử với mọi đối tượng, mọi tình huống, sao cho hợp tình, hợp lý, hợp cảnh, hợp pháp, đúng với nhận thức nhân văn chung, không trái với đạo đức làm người của mình, không làm hại người, hư vật, để mỗi người thể hiện quyền làm người chân chính của mình trong cuộc sống cộng đồng xã hội loài người. Để chung sức xây dựng một Xã Hội Người Tự Do Dân Chủ trong đó quyền Tự Do, Tự Chủ, Sáng Tạo của mỗi người trở thành cứu cánh của Lịch Sử Nhân Loại. Vì vây, người xưa gọi Chính Trị là  Nghệ Thuật Thỏa Hiệp. Nay có thể gọi Chính Trị Nghệ Thuật Ứng Xử.   Những người vì thiếu hiểu biết, hoặc vì bất cứ lý do nào đó, mà không thực hiện quyền làm chính trị của mình, tức là tự chối bỏ quyền tự do, tự chủ lựa chọn của mình, nhường cho kẻ khác quyết định vận mệnh của mình rồi đấy! Hay, có những người cho rằng: Chính trị là lãnh vực đầy ác hiểm, thủ đoạn, dối trá, lừa bịp, mánh khóe, quỷ quái, rình rập hại nhau, nên mình cần phải xa lánh. Lỗi lầm, sai trái đó là do người làm chính trị với tâm gian tà, trí quỷ quyệt đã làm sa đọa Chính Trị thành Tà Trị mà ra. Nên những hành vi sa đọa ấy phải gọi là Tà Trị chứ không thể cho đó là Chính Trị được nữa. Đã là chính trị thì tự nó phải là việc làm chính đáng, tốt lành, chân thật đem lại sự an lành cho Con Người, thịnh trị cho Quốc Gia, công bằng cho Xã Hội, hòa bình cho Thế Giới. Nó thuộc về toàn dân, là Nhân Quyền, là quyền lợi thiết thân, mà mọi công dân đều có bổn phận, trách nhiệm thi hành, đó là Dân Quyền được ứng cử và bầu cử những người đại diện mình vào các cơ quan công quyền quốc gia. Hoặc tham gia các chính đảng để tranh cử, để được bầu lên cầm quyền. Hay đóng góp công sức của mình cho các đoàn thể tôn giáo, ngôn luận, chính trị, nghiệp vụ mà mình theo. Gọi là các Tập Thể Xã Hội Dân Sự. Chính các tập thể xã hội công dân này mới là sức mạnh của toàn dân, của dân tộc để tự bảo vệ lấy giá trị tự do, tinh thần tự chủ, quyền lợi tư hữu của mỗi người trong chế độ Dân Chủ Tự Do. Nhằm giữ cho luật pháp nghiêm minh, chính quyền trong sạch, chính trị chân chính, xã hội công bằng, kinh tế phát triển, đất nước phú cường, thế giới hòa bình.  

QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ  
Từ ngàn xưa, nhân loại đã thấm thía và bị trả giá quá đắt về những sai trái trong lãnh vực chính trị, nên mới nói: “Làm Thầy Thuốc mà sai thì giết chỉ một mạng người. Làm Chính Trị mà sai thì hại cả một đời, cả một nước. Làm Văn Hoá mà sai thì hại đến muôn người, muôn đời, và muôn nước”. Vì Văn Hóa có giá trị trường cửu, rộng lớn, là biểu hiện của “Chân Lý Tính”, là nội dung của Chính Trị và khắp mặt sinh hoạt quốc gia và quốc tế. Nó ăn sâu, bén rễ vào tâm thức Con Người thành lối sống, cách sống, nếp sống, khuynh hướng sống, truyền thống sống của mỗi Dân Tộc. Nên Văn Hóa mà sai thì Chính Trị sẽ tiếp tục sai, từ đời này sang đời khác, cho tới khi nào Văn Hóa tìm đúng chính đạo để hướng được tới Chân Lý, thể hiện được Chân Lý Tính ra trong khắp mặt sinh hoạt của đời sống xã hội, dân tộc và nhân loại.  
Người xưa gọi đây là Đế Đạo, là Đạo của Chân Lý. Đạo mà các Tôn Giáo chân chính rao giảng và thực hiện những điều thánh thiện. Đạo mà là hướng của Văn Hóa vươn tới. Còn trong cuộc sống thực tế vô thường tương đối này thì lý tưởng của người làm chính trị và xây dựng cho thể chế của quốc gia là Vương Đạo, là Đạo của Dân Chủ rộng mở cho toàn dân nhằm thể hiện Dân Quyền. Người dân có toàn quyền tự do lựa chọn thể chế và người cầm quyền của mình. Đạo của các chế độ độc tài bạo trị, các đế quốc thống trị, các đoàn thể chính trị quá khích, tôn thờ bạo lực là Bá Đạo. tức là Đạo của Độc Tài khủng bố toàn trị. Còn các chế độ, chính quyền, đảng phái vừa độc tài, vừa tham nhũng, hại dân, hại nước, buôn dân, bán nước như chế độ Việtcộng hiện nay thì đó là Tặc Đạo, là Đạo của Kẻ Cướp. Ngoài ra các chế độ, các chính quyền, các chính đảng “ăn xổi ở thì”, gặp đâu làm đó, sai rồi sửa, sửa rồi vẫn sai, đó gọi là Mạt Đạo.  Vậy “Chính Trị Đạo” gồm: Đế Đạo, Vương Đạo, Bá Đạo, Tặc Đạo. 2 đường chính là Đế Đạo và Vương Đạo, tức là Chính Đạo. 2 đường tà là Bá Đạo và Tặc Đạo, tức là Tà Đạo. Chính, Tà đều do mỗi người, mỗi đoàn thể, mỗi thế lực tự do, chủ động suy nghĩ, phán đoán và lựa chọn. Tất cả là ở người, do người mà chính trị trở thành tốt hay xấu. 
Đã là người có trí khôn, sống giữa xã hội người thì không thể không làm chính trị, và có làm hay không cũng đều bị hệ lụy vào guồng máy chính trị cả. Khi nói tới Quyền là nói tới Quyền Lực Chính Trị. Giáo Quyền là quyền lực chính trị của Tôn Giáo. Thế Quyền là quyền lực chính trị của Chính Quyền cai trị. Dân Quyền là quyền lực chính trị của Công Dân. Nhân Quyền là quyền lực chính trị thuộc về Con Người. Đòi Nhân Quyền là đòi quyền lực chính trị của Con Người, vì Con Người, cho Con Người vậy.  
Trước, nay, người đời thường lẫn lộn giữa hai lãnh vực chính quyền cai trị, với chính trị dân sự. Vẫn theo quan niệm của thời Phong Kiến, cho rằng: Chỉ có Vua, Quan cầm quyền, thực hiện chủ trương, chính sách, đường lối, thi hành luật lệ quốc gia, và những hoạt động của kẻ thống trị, hay sinh hoạt đảng phái, nhằm cướp chính quyền, mới cho đó là làm chính trị, còn dân không có quyền chính trị. Người dân trong nước là Thần Dân của Vua. Sơn Hà của Vua. Xã Tắc của Vua. Vua thay Trời trị Dân. Vua dựa vào Thần Quyền, nhân danh thần quyền để tạo ra quyền lực chính trị cho mình, cho dòng họ mình, rồi ban quyền cho quan chức để thống trị toàn dân. Dân không có quyền biết, bàn, và làm chính trị. Nhưng ở  thời đại Dân Chủ Tự Do ngày nay thì, Quyền Chính Trị thuộc về Toàn Dân. Người Dân là chủ nhân ông có thẩm quyền đích thực về Quốc Gia mình. Tất cả mọi công dân đều phải làm chính trị, phải có bổn phận chính trị, phải có trách nhiệm về Sinh Mạng Chính Trị của mình và của Quốc Gia. Ý chí toàn dân tạo thành quyền lực chính trị quốc gia thể hiện qua luật pháp và chế độ. Nên phải biết suy nghĩ phán đoán để ra ứng cử, hoặc lựa chọn người đại diện mình bầu vào chính quyền. Hay quyết định gia nhập một tổ chức Tôn Giáo, Văn Hóa, Xã Hội, Nghiệp Vụ nào đó để thực hiện lý tưởng, cũng như bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, đó đều là thái độ và là hành vi chính trị cả.  
Ngay các tổ chức Tôn Giáo cũng không thoát khỏi chính trị. Vì không một tôn giáo nào lại không có mục đích truyền bá giáo lý, giáo pháp của mình phổ cập tới mọi người, khắp chốn. Để đem Đạo vào Đời thì phải có Giáo Hội. Có giáo hội là phải có giáo chủ, có giáo lý, có đền thờ, có tổ chức, có tu sĩ , có giáo dân, có giáo quyền, có cơ sở, có phương tiện, có chủ trương, có đường lối, có phương pháp truyền đạo. Tức là có đối nội, đối ngoại, có làm chính trị. Chỉ khác là các tôn giáo tuy có xây dựng Giáo Quyền, mà không phải là để đoạt Thế Quyền. Giáo Hội bất cứ thuộc tôn giáo nào cũng không thể trực tiếp cầm quyền cai trị, không trùm phủ lên chính quyền, bắt Thế Quyền làm công cụ phục vụ cho Giáo Quyền như khuynh hướng Hồi Giáo toàn thống hiện nay, để đẩy nhân loại vào các cuộc thánh chiến nguy hiểm. Ngược lại Chính Quyền cũng không thể lợi dụng Giáo Quyền làm công cụ cho Thế Quyền để thỏa mãn tham vọng Đế Quốc Thống Trị của mình, như ở Trunghoa, Lamã xưa, và Cộngsản nay.  

PHÂN NHIỆM CHÍNH TRỊ  
Ngay từ thời loài người vừa tiến vào cuộc sống sinh hoạt cộng đồng xã hội sơ khai, thì đã hình thành 2  lãnh vực Thế Quyền và Giáo Quyền và đều dựa vào Thần Quyền, nhân danh Thần Quyền để lãnh đạo, hướng đạo toàn dân rồi. Nên trong sinh hoạt chính trị của tập thể xã hội phôi thai đó đã được phân công, phân nhiệm một cách tự nhiên là Thế Quyền nằm trong tay Tộc Trưởng hay Tù Trưởng điều khiển, hướng dẫn Bộ Tộc, hay Bộ Lạc sinh hoạt, kiếm sống. Giáo Quyền nằm trong tay các Pháp Sư hay Thầy Cả có nhiệm vụ thiêng liêng là cầu cúng thần linh, tìm cách trị bệnh cho dân. Thế Quyền giữ phần Lãnh Đạo cai trị bộ tộc. Giáo Quyền là Chỉ Đạo tinh thần cho dân. Hai lãnh vực Tinh Thần và Thực Tế này, luôn luôn có sứ mạng linh thiêng, và thiết thân là phụng sự cho người dân và xã hội thì mới làm tròn thiên chức tự nhiên của lịch sử trao cho.  
Bước vào thời thành lập Quốc Gia, thì Thế Quyền hoàn toàn nằm trong tay Nhà Vua và Triều Đình Phong Kiến để lãnh đạo, điều hành Quốc Gia. Giáo Quyền thuộc về các Tôn Giáo thờ kính Thần Linh, hay tin nhận Tâm Linh để chăm sóc, hướng dẫn tinh thần và bảo vệ đạo đức cho Toàn Dân. Thế nhưng, trong quá trình lịch sử, hai thế lực Giáo Quyền và Thế Quyền vì tham vọng độc tôn, thường rơi vào cảnh cạnh tranh lấn vượt, tiếm quyền của nhau, nhằm thống trị Quốc Dân gây ra không biết bao nhiêu cảnh tàn sát, khổ lụy cho loài người. Một khi ở Quốc Gia nào đó, Thế Quyền khống chế nổi Giáo Quyền, hay ngược lại Giáo Quyền nắm được Thế Quyền thì sẽ thành Chế Độ Toàn Thống, thường biến Quốc Gia đó thành Đế Quốc xâm lăng các nước chung quanh, đây là một thảm họa lớn đối với nhân loại.  
Đế Quốc Trung Hoa. Hán Võ Đế -140 – 87 trước Tây Lịch, dùng Pháp Trị của Hàn Phi, để cho Nhà Vua nắm hết mọi quyền hành quốc gia, với chủ trương “Trung Quân Ái Quốc” “Quân xử Thần tử, Thần bất tử, bất trung”. “Trung Thần bất sự nhị Quân”, biến Vua thành nhà Độc Tài Bạo Trị. Rồi tổng hợp với nền Đạo Học Nho Giáo lấy “Tam Tài là Thiên, Địa, Nhân”. “Tam Cương là Quân, Sư, Phụ”. “Ngũ Thường là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”, và “phương pháp Nhân Trị”của Khổng Tử làm kim chỉ nam để giáo hóa dân chúng và tuyên dương danh nghĩa Đế Quốc Đại Hán. Vì theo trật tự đẳng cấp Vua đứng trên Sư, nên Thế Quyền trùm lên Giáo Quyền, khiến ở Trunghoa Tôn Giáo đều do Triều Đình tấn phong. Giáo Quyền không thể độc lập phát triển nổi. Theo đề nghị của Đổng Trọng Thư, Võ Đế  lấy Nho Giáo làm Quốc Giáo, tôn Khổng Tử làm “Vạn Thế Sư Biểu”. Từ đó tạo ra nền Chính Trị Phong Kiến Đế Quốc Đại Hán pha trộn giữa Pháp Trị với Nhân Trị dẫn tới tình trạng cá nhân độc tôn duy ý chí bạo trị. Vượt qua thời Hán, kéo dài mãi tới ngày nay. Dù Trunghoa đã trải qua 2 cuộc gọi là Cách Mạng Tư Sản Dân Quyền 1911 của Tôn Dật Tiên, và cuộc Cách Mạng Cộng Sản Toàn Trị 1949, của Mao Trạch Đông, thì tinh thần Phong Kiến Bạo Trị, Đế Quốc Đại Hán ở giới cầm quyền Trunghoa ngày càng quái hóa thêm.  
Đế Quốc Lamã. Trên 3 trăm năm, các Hoàng Đế Lamã tàn sát Kitô Giáo từ thuộc quốc Do Thái truyền vào Lamã. Đạo Kitô của Đức Jésus càng bị cấm đoán, đầy đọa, giết hại, càng phát triển lan tràn ra khắp Đế Quốc. Hoàngđế Constantine, muốn an dân, bình trị thiên hạ, nên năm 313 đã phải chính thức ra  sắc chỉ nhìn nhận Kitô Giáo là Công Giáo của toàn Đế Quốc. Năm 314, ông triệu tập Hội Đồng Giám Mục thành lập Giáo Hội Kitô Giáo Lamã. Nhưng vị cầm đầu Giáo Hội là Giáo Hoàng phải do Hoàngđế chỉ định. Như vậy là Thế Quyền Lamã xử dụng Giáo Hội Kitô làm công cụ cho Đế Quốc. Mãi tới năm 1059, Giáo Hội mới thành lập được Hồng Y Đoàn để tự bầu lên Giáo Hoàng, từ đây Giáo Hội Kitô Giáo mới củng cố được Giáo Quyền Độc Lập. Cuộc tranh chấp quyền lực lãnh đạo giữa Giáo Quyền của Giáo Hội với Thế Quyền của Vua Chúa Âu Châu liên tục nổ ra. Thế Quyền là nhất thời, Giáo Quyền là trường cửu. Giáo Hội Kitô Lamã lan truyền ra khắp thế giới. Phong trào Thực Dân theo gót các nhà truyền giáo mà mở mang thuộc điạ…Tới năm 1962, Cộng Đồng Vaticano II, mới công bố chủ trương “Đem Đạo vào Đời”. “Tách Giáo Hội khỏi Thế Quyền”. “Các tu sĩ không được nắm chính quyền và làm chính trị đảng phái”.  Tức là Giáo Hội Kitô Giáo Lamã chính thức  phân nhiệm chính trị giữa Giáo Quyền và Thế Quyền. 
Hiện nay trên thế giới chỉ còn Hồi Giáo là theo đuổi chủ trương Giáo Quyền Toàn Thống. Tiên tri Mohammed, học từ Do Thái Giáo và Kitô Giáo, vào thế kỷ thứ 7, Ông thành lập Đạo Hồi, tôn thờ một vị Nam thần duy nhất là Allah, đấng toàn năng tối thượng điều khiển vũ trụ, vạn hữu và loài người. Đạo Hồi có bản chất Nam tính cực đoan. Ông tự nhận là vị tiên tri lớn nhất do Thượng Đế Allah gửi đến cho thế giới. Tiên tri Mohammed có khí phách của một Đại Đế, hơn là vị Giáo Chủ nhân từ sẵn sàng nhận lấy phần hy sinh về mình. Ngược lại, Mohammed luôn luôn đòi phần thắng cho mình. Ông tuyên bố: “Thánh chiến với bất cứ ai, bất cứ quốc gia nào không theo đạo Hồi”. Bởi đó, Hồi Giáo biến thành một Đại Đế Quốc, phía Tây từ Y-pha-Nho, phía Đông tới  sông Hằng Ấn Độ. Từ năm 1096 đến 1720, Hồi Giáo tiến vào trung tâm Âu Lục tạo thành cuộc Thánh Chiến với Kitô Giáo và các nước Âu Châu. Hồi Giáo bị Kitô Giáo chận ở Âuchâu, bị Ấn Độ Giáo đẩy lùi  xuống Đông Nam Á rồi trụ ở 2 nước Malaysia và Indonesia. Do đó, Vua trong các nước Hồi Giáo từ xưa, nay, đều kiêm luôn chức Giáo Lãnh của Đạo Hồi.  
Đến thời Dân Chủ, nhiều nước Hồi Giáo theo khuynh hướng của Thổ Nhĩ Kỳ, thành lập các chính quyền cai trị bởi chế độ thế tục. Năm 1979, Ayatollah Khomeini thực hiện cuộc cách mạng Hồi Giáo tại vương quốc Iran. Tạo lập ra một Hội Đồng Tu Sĩ Hồi Giáo Tối Cao, bao trùm lên Chính Quyền Quốc Gia, trực tiếp lãnh đạo Quốc Dân, thi hành Luật Hồi Giáo. Từ đó các phong trào Hồi Giáo Quá Khích thi nhau xuất hiện, để cổ xúy cho chế độ Hồi Giáo Toàn Thống. Nổi bật nhất là tồ chức Hồi Giáo Khủng Bố al Qaeda, do Osama bin Laden lãnh đạo. Đã áp dụng kiểu “ôm bom tự sát”của Palestine. Cướp máy bay  dân sự Hoakỳ biến  thành quả bom bay khổng lồ, lao thẳng vào và hủy diệt tòa nhà Tháp Đôi thành bình địa, ở khu trung tâm thương mại New York, và một phần Ngũ Giác Đài, biểu tượng cho sức mạnh quân sự vô địch của Mỹ. Cuộc Chiến Quốc Tế “Chống Khủng Bố” toàn diện, quyết liệt, khổ đau, đầy máu, nước mắt, tiền tài, do Mỹ cầm đầu nổ ra chưa thấy ngày kết thúc. 
Trong tiến trình lịch sử nhân loại, thường thấy xuất hiện cảnh Tôn Giáo và Vua Chúa luôn luôn tranh chấp với nhau. Giáo Quyền lấn vượt Thế Quyền, hay ngược lại Thế Quyền khống chế Giáo Quyền, hoặc thế lực này lợi dụng thế lực kia, để thống trị nhân loại, đó là mối họa khủng khiếp nhất đối với thế giới. Trong cảnh khổ đau triền miên không lối thoát ấy, cũng như biết rõ Con Người phải sống trong kiếp sinh, già, bệnh, chết và đói nghèo, rét lạnh đe dọa thường xuyên. Thái tử Tất Đạt Đa, đã quyết định lựa chọn, bỏ vương vị quyền uy, thế tập, đi tu tìm đạo giải thoát. Như vậy ngay từ khởi thủy Đạo Phật đã tự chủ động tách Tôn Giáo khỏi Chính Quyền. Tách Giáo Quyền khỏi Thế Quyền. Ở thời ấy, giáo quyền Bà La Môn Giáo trùm lên thế quyền của Vua Chúa Ấn Độ. Bởi vậy, trong luật do chính Đức Phật lập ra mới có điều  khoản: “Là quan chức và chưa chính thức từ quan, không được thọ đại giới Tỳ Kheo” Nghiã là Tăng sĩ Phật Giáo không được đảm nhận chức quyền, không được  tham gia Thế Quyền Cai Trị. Cũng có nghĩa là Phật Giáo phải luôn luôn ở vị trí Giáo Quyền trong tư thế Văn Hóa đến thẳng với người dân, hướng dẫn dân trong tiến trình mỗi người tự tu “tự giác, giác tha, giác hành viên mãn”. Không lừa mị, cao áp, hù dọa; không làm công cụ cho chính quyền để thống trị dân; không tranh quyền, cướp nước, rồi ngụy biện cho đó như phương tiện truyền đạo, mà chỉ được dùng Đế Đạo, tức là Đạo của Chân Lý để hoằng dương chánh pháp thôi. 
Chính vì thế, mà mỗi lần Phật Giáo bị đưa lên làm Quốc Giáo cho một Quốc Gia nào đấy, thì liền sau đó đều mang họa không nhỏ. Lần đầu là tại Ấn Độ, Đại Đế Asoka -268 đến -232 trước Tây lịch, sau khi dùng binh lực tàn sát các nước nhỏ, thống nhất Ấn Độ thành một Đế Quốc, ông khởi tâm hướng Phật, lấy Phật Giáo là Công Giáo cho toàn Đế Quốc, bỏ Bà La Môn Giáo vốn là tôn giáo phổ biến trong nhân gian tại lục địa Ấn Độ. Nhưng sau khi triều đại Asoka tàn, thì Bà La Môn Giáo quật khởi, đẩy Phật Giáo ra khỏi lục địa Ấnđộ, chạy lên phía Bắc trụ ở Nepal, xuống phía Nam thì trụ ở Tích Lan. Cho đến nay, xứ Ấn là quê hương của Đạo Phật, mà chỉ còn di tích Phật Giáo, chứ người theo Đạo Phật thì rất hiếm.  
Lần thứ hai tại Việtnam. Vào đầu mùa tự chủ năm 968, Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong Thập Nhị Xứ Quân, lên ngôi Hoàng Đế. Đinh Tiên Hoàng Đế được nhiều Tăng Sĩ Phật Giáo có tài phò trợ, nhất là về mặt ngoại giao. Nhà Vua phong Ngài Khuông Việt là Tăng Thống. Sang Thời Tiền Lê. Phật Giáo vẫn được xem như Quốc Giáo, vì tuyệt đại đa số dân Việt thời đó đều thờ Phật. Nhưng bản chất của Đạo Phật là Đế Đạo, không thích hợp ở Triều Đình Phong Kiến. Dưới thời Lê Long Đĩnh 1005-1009, Long Đĩnh giết anh để cướp ngôi, từ đó lấy việc giết người làm trò chơi. Giới Tăng Sĩ khuyên can đều bị hại. Phật Giáo gặp đại nạn.  
Thời Lý Công Uẩn 1010-1225, lập ra nhà Lý. Vị cố vấn cho vua Lý Thái Tổ là Vạn Hạnh Thiền Sư mới đem Phật Giáo về đúng vị thế của mình. Tăng Sĩ Phật Giáo trở về với toàn dân, trao Triều Đình lại cho Nho Sĩ Khổng Giáo để phò vua, giúp nước. Phân định giữa Giáo Quyền và Thế Quyền độc lập mà tương trợ nhau để phụng sự dân, nước. Thực hiện cuộc Viên Dung Tôn Giáo, triển khai nền Văn Hóa Dân Tộc Dung Hóa cả ba nguồn Đạo Học Đông Phương là Phật, Lão, Khổng. Xây dựng nền Văn Hiến Đa Nguyên, Phân Nhiệm, Điều Hợp cá biệt với hệ thống sinh hoạt hữu vi độc tôn của Trunghoa. Tư tưởng Việtnam lấy Con Người tự chủ làm cứu cánh, lấy Dân Tộc độc lập làm chủ đạo cho mọi sinh hoạt. Nói cách khác, đó chính là lối Nhận Thức Nhân Chủ Nhân Văn mà thời đại ngày nay đang tiến tới. 
Nhưng bất hạnh cho Dân Tộc, đại họa của Toàn Dân, và cũng là mối nguy đối với Thế Giới hiện nay là Dòng Sống Văn Hóa Viên Dung Tôn giáo truyền thống của Dân Tộc và cũng là hướng vươn tới của Toàn Thế Giới, đang bị chế độ cộng sản vô thần, vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo, phi nhân tính, phi dân tộc, phi văn hóa đã biến thái thành chế độ đạo tặc, độc tài, tham nhũng, ngu si, đang cố dìm toàn dân và đất nước vào vòng nô lệ Tầucộng, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việtnam. Khiến cho toàn vùng Á châu bị nằm trong vòng đe dọa thường trực của bọn Bành Trướng Bắc Kinh. Khiến cho Thế Giới bị đặt trong tình thế bất an thường xuyên. Việc phục hồi sức mạnh Dân Tộc, tinh thần độc lập Quốc Gia và ý thức tự do tự chủ của Toàn Dân Việtnam, nhằm Dân Chủ Hóa chế độ, đó là sinh lộ của Việtnam thoát khỏi chế độ Tặc Đạo Việtcộng và cũng tạo nổi thế Liên Minh Dân Chủ Phòng Thủ Chung đối với các nước Đông Nam Á và Thế Giới, để làm cùn nhụt khí thế Bành Trướng của Trungcộng, có như vậy Việtnam mới thực sự được tự do, độc lập, tự chủ phát triển thịnh vượng trong hoà bình, để Quốc Gia Chủ Động hội nhập tiến trình Toàn Cầu Hóa với Nhận Thức Nhân Chủ Nhân Văn thời đại.  
LÝ ĐẠI NGUYÊN
Xuân Canh Dần 2010 

-Lý Đại Nguyên-

Từ ngày bước vào Nhà Trắng, tổng thống Hoakỳ, Barack Obama và chính phủ Dân Chủ của ông đã tỏ dấu theo đuổi chính sách ngọai giao mềm dẻo hòa hoãn, đến độ mềm nhũng với tất cả các nước thân lẫn sơ, ngoại trừ các nhóm khủng bố quốc tế. Nhất là đối với Trungcộng, một chủ nợ khổng lồ của Mỹ thì chính sách ngoại giao nhân quyền của Mỹ đã trở thành nhão nhoét. Khiến cho các nước trong vùng Đông Nam Á và Thái Bình Dương không dám tin vào chủ trương “Trở Lại Á châu” của Mỹ. Chính quyền Quốc Dân Đảng Đài Loan của tổng thống Mã Anh Cửu tiếp tục xiết chặt quan hệ giao thương với Trungcộng. Chính phủ Dân Chủ cánh tả Nhậtbản của thủ tướng Hatoyama, tận tình hòa giải với Bắckinh, và muốn xét lại việc quân đội Mỹ đóng tại Okinawa của Nhật.   Bỗng nhiên ngày 12/01/2010, công ty Google, một tập đoàn internet khổng lồ quốc tế, cho hay: 
“đã phát hiện những vụ tấn công mạng một cách tinh vi hồi trung tuần tháng 12/09 nhằm vào các tài khoản Gmail của các nhà hoạt động nhân quyền ở Trungquốc, và ít nhất còn có 20 công ty lớn khác cũng bị tin tặc tấn công tương tự”.  
Google không cụ thể cáo buộc chính phủ Trungcộng, nhưng họ không còn sẵn lòng kiểm duyệt công cụ tìm kiếm các trang mạng được sử dụng tại Trungquốc, , như chính phủ yêu cầu. Google tuyên bố;  
“Có thể sẽ chấm dứt hoạt động tại Trungquốc”. 
Lập tức ngày 13/01/10, ngoại trưởng Mỹ, Hillary Clinton lên tiếng: 
 “Những cáo buộc của Google đặt ra những câu hỏi và quan ngại nghiêm trọng, và muốn nghe một lời giải thích từ Trungquốc”. 
Ngày14/01/10 phát ngôn nhân Tòa Bạch Ốc, Robert Gibb tuyên bố: 
 “Nhà Trắng ủng hộ quyết định của tập đoàn Google”.  
Trả lời các ký giả, liệu việc này có làm ảnh hưởng tới quan hệ giữa Hoakỳ và Trungquốc không? Ông Gibb nói: 
 “Tổng thống Obama tin tưởng mạnh mẽ về những quyền phổ quát của mọi người trên toàn cầu, không một quốc gia nào được quyền ngăn chặn”.  
Ông Neelie Kroes, phụ trách về cạnh tranh của Liên Âu cũng lên tiếng bày tỏ quan ngại đối với chính sách kiểm duyệt Internet của Trungcộng và khẳng định:  
“Tầm quan trọng của việc một hệ thống mạng mở không bị ngăn chặn”. 
Công ty Yahoo có phần hùn lớn trong tập đoàn internet Alibaba của Trungcộng, tuyên bố: “Sát cánh với Google”. Xem ra, nếu các tập đoàn Internet quốc tế đồng loạt cùng bỏ chạy khỏi Trungquốc, thì các nhà đầu tư và giao thương quốc tế có còn dám tin tưởng vào hệ thống thông tin một chiều bưng bít của Trungcộng nữa hay không? Trungcộng lập tức rơi vào tình trạng tự cô lập như Liênxô ngày nào.  

Trong lúc đó, chính phủ Hoakỳ cương quyết bảo vệ hợp đồng 6,4 tỷ đôla bán vũ khí cho Đài Loan, dù Trungcộng phản ứng điên cuồng đòi trả đũa. Hôm 30/01/10, bộ ngoại giao Mỹ ra thông cáo: 
“Việc bán vũ khí sẽ đóng góp cho an ninh và ổn định giữa Đàiloan và Trungquốc”. 
Bắckinh tuyên bố: “sẽ ngưng trao đổi quốc phòng với Washington, xem xét lại việc hợp tác trên nhiều lãnh vực quan trọng, và cấm vận các công ty vũ khí”. Đàiloan hoan nghênh quyết định của Mỹ. Tổng thống Mã Anh Cửu nói: “Hợp đồng bán vũ khí sẽ khiến Đàiloan tự tin hơn để có thêm các hoạt động trao đổi với Trungquốc”. Theo hãng tin Kanwa của Đài Loan cho biết: Những tên lửa Changjin CJ 10 của Trungquốc đã được chuyển tới cho binh đoàn 215 đóng tại Liễu Châu Quảng Tây Trungquốc. Tầm bắn của các tên lửa này từ 1.500 km đến 2.000 km, với tốc độ 3.000 km giờ, có khả năng mang đầu đạn hạt nhân. Khống chế một phạm vi rộng lớn bao gồm Bắc Ânđộ, Đàiloan, Triềutiên, đảo Okinawa Nhật Bản và Việtnam. Cùng lúc, Bắc Hàn liên tục pháo kích vào vùng biển đang còn tranh chấp với Nam Hàn. Tất nhiên trong tình thế này, Nhậtbản không thể bỏ rơi được quân lực Hoakỳ. Các nước trong khu vực Á châu dù muốn hay không, cũng phải lo tăng cường sức mạnh quân sự để tự phòng vệ, và trông vào sức mạnh quân sự Mỹ làm lực cản đối với Trungcộng. Cuộc tập dượt Hảiquân quy mô lớn do Ấnđộ chủ trì, với các nước Áchâu Thái Bình Dương tham dự, kéo dài 4 ngày từ 04/02/10, gồm Australia, Bangladesh, Indonesia, Malaysia, Miến Điện, Singapore, Sri Lanka, Thái Lan. Hải quân Brunei, Philippine, Việtnam và New Zealand chỉ tham gia diễn tập. Trước đó Việtnam đã mua tàu ngầm, máy bay của Nga lên tới 1,8 tỷ đôla. Hình như nhờ vào việc biết trước để mua được vàng với giá rẻ, bán ra lời được 1,7 tỷ đôla. Thế là kéo được Nga vào sân chơi “Chiến Lược Phòng Thủ Toàn Cầu của Mỹ” tại Áchâu.  
 
Ngày 31/01/2010, truyền thông Hoakỳ cho hay, nước này đang đẩy nhanh việc triển khai hệ thống chống phi đạn tại 4 quốc gia vùng vịnh Ba Tư, gồm Qatar, Kuwait, các Tiểu Vương Quốc Ả Rập và Bahrain. Đồng thời tăng cường sự hiện diện của Hảiquân với các tàu đặc biệt có khả năng bắn hạ phi đạn, nhằm áp lực lên Iran. Ngày 03/02/10, tổng thống Iran, Mahmoud Ahmadinejad tuyên bố:  
“Iran sẵn sàng chuyển uranium ra nước ngoài để tiếp tục làm giầu theo thỏa thuận đã đạt được với phương Tây”. 
Thế là kéo được Nga và Âuchâu vào sân chơi Trung Cận Đông. Trước đây Iran đã chống lại việc này, nên Mỹ đang vận động đưa ra các biện pháp chế tài mới. Nhưng Trungcộng không đồng ý mạnh tay hơn. Nay Mỹ tỏ dấu hiệu quyết  liệt với Trungcộng qua việc tái tục bán vũ khí cho ĐàiLoan, trong khi mối quan hệ giữa Mỹ-Tầu có tranh cãi về vấn đề thương mại và kiểm soát Internet. Cũng như  việc  tổng thống Obama vẫn tiếp kiến Đức Đạt Lại Lạt Ma, bất chấp sự phản đối của Trungcộng, khiến cho Trungcộng lâm vào thế cô đơn phải lo thủ thế trong chiến lược toàn cầu mới của Mỹ.
 
Đến đây nhận thấy rằng, dù ông Obama đã bạc đầu về các gói “kích cầu kinh tế”, đánh vật với chương trình “bảo hiểm y tế toàn dân”, xem ra vẫn chưa làm nên cơm cháo gì, vì đây chỉ là sản phẩm của độc đảng Dân Chủ, tự nó đã phạm vào nguyên tắc lưỡng đảng và phạm vào lãnh vực “Quyền Tự Do Cá Nhân Bất Khả Xâm Phạm” của truyền thống và Hiến Pháp Mỹ, nên có thể ông và đảng Dânchủ của ông sẽ bị trả giá rất nặng chưa biết chừng. Nhưng về mặt “Chiến Lược Toàn Cầu” thì nước Mỹ vẫn lừng lững vận hành đi tới. Tổng thống Obama đã biết chọn đại tướng James Jones - thuộc đảng Cộnghòa do  TT Bush cha bổ nhiệm làm Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoakỳ - làm cố vấn, cầm đầu Hội Đồng An Ninh Quốc Gia với ban tham mưu gồm 200 nhân viên thượng thặng về chiến lược và chính sách, đông nhất trong các đời tổng thống trước nay. Giữ ông Robert Gates ở lại chức Bộ Trưởng Quốc Phòng, tiếp tục chính sách quốc phòng từ thời TT Bush. Nghĩa là mặt Kinh Tế và Ngoại Giao thì có thể linh động, nhưng về mặt chiến lược an ninh quốc phòng thì không thay đổi. Nước Mỹ vẫn là Siêu Cường Quân Sự Toàn Cầu, sẵn sàng chống khủng bố, ngăn bành trướng và khuyến khích các nước tự phòng vệ để làm cùn nhụt mộng xâm lăng của đế quốc Tầuđỏ. Nhưng các nước Áchâu, trong đó, nhất là Việtnam có tự cứu mình nổi hay không, là do có thực sự Dân Chủ Hoá Chế Độ được hay không mà thôi. 
  • Little Saigon ngày 02/02/2010.

Lý Đại Nguyên
 
Kẻ lãnh đạo tư tưởng Cộngđảng, cầm vận mệnh truyền thông báo chí trong nước, Tô Huy Rứa, ủy viên Bộ Chính Trị, trưởng ban Tuyên Giáo Trung Ương, ngày 03/08/2009 đã cho đăng một bài trên báo Nhân Dân điện tử, với nhận định: “Đảng Cộng Sản Việtnam đang đứng trước một bối cảnh quốc tế phức tạp”. “Xu hướng cạnh tranh giữa các nước lớn sẽ ngày càng gay gắt, quyết liệt hơn, đặc biệt trên điạ bàn chiến lược, trong đó có biển Đông”. Đồng thời Tô Huy Rứa vẫn xác định đường lối chính trị của cộng đảng ở Đại Hội XI sắp tới là: “Chống Tự Diển Biến”, “tiếp tục làm sáng tỏ nhận thức, quan niệm về Chủ Nghĩa Xã Hội và con đường đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội…” Theo đó Tô Huy Rứa cảnh báo về nguy cơ chuyển biến nội bộ đảng, thậm chí còn cao hơn “Diễn Biến Hòa Bình”. Hiện tượng ‘tự diễn biến nội bộ đảng’ có nghiã là trong tư tưởng và trong thực tế quyền hành và quyền lợi riêng tư của mỗi đảng viên, từ Bộ Chính Trị trở xuống tới các Chi Bộ Cơ Sở, đại đa số, đã không còn tin tưởng tuyệt đối vào thứ Chủ Nghĩa Xã Hội chết tiệt đó và không còn trung thành với chủ trương, đường lối, sách lược lệ thuộc quốc tế của Trung Ương Đảng nữa. Mỗi đảngviên đang tự thủ thân, lập thế, để lúc nào đó cùng ‘ù té chạy’. Điều không may cho Dân Tộc và Quốc Dân Việt Nam là, trong sự ‘tự diễn biến’ ấy, những đảng viên, nhất là những người lãnh đạo đảng Việtcộng lại không hướng theo ‘Diễn Biến Hòa Bình’, dựa trên nhu cầu, nguyện ước chân chính thiết thực của toàn dân và dân tộc là Dân Chủ Hóa chế độ. Đa Nguyên Hóa tư tưởng. Tự Do Hóa xã hội. Tư Nhân Hóa truyền thông. Tư Hữu Hóa Ruộng Đất. Tư Doanh Hóa kinh tế. Toàn Cầu Hóa thị trường…theo hướng vận hành thăng hóa của Nhận Thức Nhân Chủ Nhân Văn thời đại. Mà chỉ lo mất quyền lực, lợi lộc của cá nhân và bè đảng. Trong khi đó, dù ngoài miệng phải hô to, rống lớn là phải: “Tiến Lên Chủ Nghĩa Xã Hội”. Nhưng tất cả đảng viên từ trên xuống dưới đều biết thật rõ là thứ chủ nghĩa không tưởng quái ác đó đã chết tiệt thật rồi, không còn sống lại được nữa. Cái chế độ có tên là  Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việtnam hiện nay, nó đã tự diễn biến thành “Chủ Nghĩa Tư Bản Gia Tộc Man Rợ” không giống bất cứ ai.
 
Đảng viên có quyền có thế đều đã được đảng cho phép trở thành “Tư Bản Tư Doanh”, để từ đó kéo Gia Đình Dòng Tộc vào, biến các Công Ty Quốc Doanh, kể cả vốn liếng của nhà nước thành Tư Hữu Tư Doanh, độc quyền làm kinh tế thị trường. Các công ty Tư Doanh Thường Dân, kể cả các công ty Liên Doanh với Nước Ngoài cũng dễ bị các công ty Tư Doanh Đảng Viên chèn ép cho đến mất nghiệp. Trường hợp mới nhất xẩy ra với công ty Liên Doanh Việt-Úc, hãng hàng không giá rẻ Jetstar Pacific. Chính vì đảng viên quyền thế tham nhũng và được làm giầu không cần vốn, nên họ bằng mọi cách, mọi giá phải bám lấy quyền lực quốc gia, kể cả việc cam tâm làm nô lệ cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc là Tầucộng. Trong khi dân chúng Việtnam đang bừng lên khí thế đòi Tự Do Dân Chủ và chống Giặc Tầu Xâm Lăng. Việtcộng hoàn toàn mất chính nghĩa trước dư luận quốc dân và quốc tế. Chúng không thể bám vào bất cứ thứ danh nghĩa cao đẹp nào để lừa mị toàn dân và che mắt thế giới nhằm duy trì chính quyền cộng sản độc đảng, độc tài, độc ác, tham nhũng được nữa. Nên từ tâm điạ độc ác, tham tàn và quán tính bất nhân, bất nghĩa, bất trung, bất tín, vô liêm sỉ của mỗi đảng viên đương quyền, đương thế, chúng đã tự diễn biến, biến luôn chế độ ‘xã hội chủ nghĩa’  thành chế độ ‘lưu manh côn đồ’ theo với bản tính, bản chất ngu xuẩn, xấu, sai, ác của chúng. Tại biến cố Thái Hà, Bát Nhã, Tam Tòa, Đồng Chiêm… và còn nhiều cơ sở của các tôn giáo khác nữa. Việtcộng đã cho Công An, Dân Phòng đội lốt “Lưu Manh Côn Đồ” để đánh đập tàn nhẫn những Giáo Dân, Giáo Sĩ, Tăng, Ni, nhằm chiếm đất, chiếm chùa, trước sự điều động trực tiếp của các viên chức địa phương. Để rồi Hànội đỗ thừa cho dân chúng tự phát, và trách nhiệm thuộc về địa phương, khi bị báo chí quốc tế chất vấn. Nhưng toàn dân và cả dư luận quốc tế đều biết thật chính xác, là trong chế độ cộng sản toàn trị, trung ương tập quyền, tất cả mọi hoạt động của địa phương, nhất là có tính chính trị, nhậy cảm thuộc về tôn giáo, thì phải do Trung Ương chỉ đạo. Có như vậy báo chí, truyền thanh, truyền hình trong nước mới nhất loạt vu cáo cho hàng Giáo sĩ, Tăng sĩ có lỗi kích động dân chúng ‘chống lại nhà nước nhân dân’. Khiến cho Thiền Sư Nhất Hạnh, một tăng sĩ nổi tiếng trên thế giới, sẵn sàng hợp tác với Việtcộng, Ông đã nhiều lần đưa Tăng Đoàn Làng Mai tại Pháp về Việtnam giảng pháp và tiếp xúc với giới cầm quyền Hànội, để dư luận thế giới cho là Việtnam đã cởi mở về tự do tôn giáo. Nhờ đó chính phủ Hoakỳ đã lấy tên Việt Nam ra khỏi danh sách CPC, “các nước cần đặc biệt quan tâm về tự do tôn giáo”. Rồi qua vụ chế độ Lưu Manh Côn Đồ Việtcộng đánh đuổi 400 Tăng, Ni trẻ tu học theo phưong pháp Làng Mai tại chùa Bát Nhã Lâm Đồng, và không cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam của nhà nước, được chứa chấp làm cho thiền sư Nhất Hạnh phải lên tiếng: “Bát Nhã Là Một Công Án Thiền”. Theo ông: “Nếu nghĩ rằng Bát Nhã là vấn đề của 400 tu sinh đang gặp khó khăn, đang cần một giải pháp hợp tình hợp lý thì đó không phải là một công án. Chỉ khi nào thấy rằng Bát Nhã là vấn đề chính của bản thân ta, nó liên hệ trực tiếp đến hạnh phúc, đau khổ của ta, của tương lai ta, và tương lai đất nước dân tộc ta, và chừng nào chưa giải quyết được công án Bát Nhã thì ta còn ngủ không yên, ăn không yên, làm việc không yên thì lúc ấy Bát Nhã mới thực sự là công án”. Là người tu thiền, cho Bát Nhã Là Một Công Án Thiền, đối với thiền sư Nhất Hạnh đó là một chướng ngại, khổ đau, phải thường xuyên quán chiếu để tự ngộ, tự thắng đó là lẽ đương nhiên. Nhưng dù vậy, vẫn không làm sao cho dư luận nguôi ngoai được sự chịu đựng khốn khổ của 400 người trẻ đang bị chế độ Lưu Manh Côn Đồ nghiền nát. Chỉ vì đất nước chưa có Tự Do Tôn Giáo, chưa có  Sự Thật, Công Lý. Dân Chủ, Công Bằng.
 
Về phía Thiên Chúa Giáo, hồng y Phạm Minh Mẫn, Tổng Giáo Phận Saigòn, người đã có lần cho là: “nên bỏ cờ vàng, giữ cờ đỏ” làm cho giáo dân và người tỵ nạn cộng sản phản đối mạnh mẽ. Ngày 25/01/10, cũng đã phải lên tiếng về nguyên nhân tranh chấp giữa Giáo Hội và Nhà Nước Việtcộng như sau: “Tôi thấy có một nguyên nhân chính, đó là đi ngược chiều với truyền thống văn hóa cùng những giá trị đạo đức của dân tộc. Nền văn hóa cùng những giá trị đó từ ngàn xưa được xây dựng trên tình nghĩa đồng bào tôn trọng lẫn nhau, tương thân tương trợ lẫn nhau, chứ không phải trên hệ thống quyền lực cùng bạo lực loại trừ đồng bào, đồng loại. Lịch sử cho thấy công cuộc phát triển xã hội tự do và dân chủ, bình đẳng và công bằng, văn minh và khoa học, mà thiếu tình nghĩa đồng bào, thiếu tình nghĩa huynh đệ đại đồng, luôn để lại nhiều vấn đề nan giải, cản trở sự phát triển toàn diện của con người và đất nước”. Đến đây cho thấy, dù cho các nhà lãnh đạo tinh thần vốn có thái độ ôn hòa, sẵn sàng đối thoại, hợp tác với Việtcộng, như Hồng Y Phạm Minh Mẫn, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh cũng không còn chịu đựng được cái chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa tự quái hóa thành chế độ Lưu Manh Côn Đồ, coi ‘Dân là Kẻ Thù’, coi  ‘Tầu là Thầy Tổ’. Không biết bọn họ sống được với ai nữa đây??? 
 
Little Saigon ngày 26/01/2010

Nếu không có nhận thức TỰ TRỌNG NHÂN PHẨM của mình - TỰ DO DÂN CHỦ của mình - thì cái gọi là "lòng yêu nước, tính dân tộc" chỉ là cảm tính nông nổi và bầy đàn, nếu chưa nói là gian man

Thư Mục