Lý Đại Nguyên

Trong khi nhóm Man Cộng Hànội, ngày càng đẩy Việtnam lún sâu vào vòng tay khống chế của bọn Bành Trướng Bắc Kinh, chúng coi thường dư luận quốc tế, thẳng tay xiết chặt báo giới, đàn áp những người chống tham nhũng, khủng bố những người đòi Dân Chủ và Tự Do Tôn Giáo, Công Bằng Xã Hội, thì ngày 15-11-2008 Hội Đồng Lưỡng Viện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, dưới sự chủ tọa của Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo kiêm Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống, gồm đông đủ các thành viên Hội Đồng Lưỡng Viện và một số thành viên Ban Đại Diện Tỉnh Giáo Hội. Sau 8 giờ thảo luận đã thông qua Bản Nghị Quyết 9 điểm, ngoài việc khẳng định:
“1- Quyết tâm nối tiếp sự nghiệp phụng sự chánh pháp và dân tộc, mà Đức cố Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN đã vạch ra, cho dù còn rất nhiều khó khăn phía trước đang chờ đón, vẫn không nao núng chùn bước”.
Giáo Hội đã nhất tâm tuyên hứa:
“2- Nguyện cùng toàn dân trong ngoài nước cương quyết bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ, yêu cầu nhà cầm quyền Hànội phải có trách nhiệm bào vệ tổ quốc, mà trước mắt là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhất là các Hiệp Ước về biên giới trên bộ, vùng đánh cá chung…đã ký kết với Trung Cộng như thế nào? Nhượng, bán cho Trung Cộng bao nhiêu đất đai, lãnh hải? Số ngư dân vùng đánh cá chung, đã bị Trung Cộng bắn giết trong trường hợp nào? Bao nhiêu người? và giải quyết ra sao? Hãy can đảm công bố minh bạch cho quốc dân trong ngoài nước và thế giới cùng biết. Tránh những dư luận bức xúc, bàn tán xôn xao, trong nhân dân ngày càng gia tăng.”

Lời yêu cầu này được nêu lên với nhà cầm quyền Hàinội, giữa lúc toàn dân trong ngoài nước và thế giới đang chứng kiến chiến hạm Trịnh Hòa của Trungcộng, ngày 18-11-08 cập bến Đànẵng, tiếng là chuyến thăm hữu nghị. Nhưng thực tế là Trungcộng đưa con tầu mang tên Trịnh Hòa vào Việtnam là cố tình xác nhận với Việtnam và Thế Giới rằng: 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và toàn cõi Biển Đông là của chúng. Vì Trungcộng từng lên tiếng cho là, chính viên thái giám Trịnh Hòa, dưới thời Nhà Minh Trunghoa này, năm 1405 được phong làm Thủy Sư Đô Đốc, điều khiển một đoàn chiến thuyền vượt đại dương tìm xứ lạ, là người đầu tiên đã khám phá ra 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và toàn vùng biển ở đây. Xem vậy, vì tâm từ bi và tình yêu nước, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã vượt lên trên mọi đối kháng đời thường, mà chính mình đang là nạn nhân bị ngược đãi, để làm một sự gợi ý cho nhà cầm quyền Hànội, nếu còn có lương tri và chút ít tự ái dân tộc thì cần lên tiếng bạch hóa mọi vấn đề khúc mắc giữa quan hệ 2 nước Việt Hoa. Đừng để cho Trungcộng coi thường dân tộc Việtnam, mà tổ tiên người Hoa trước kia, tuy từng nhiều phen bị bại trước Việtnam, nhưng vẫn tự coi là Thiên Triều và khinh miệt gọi nước ta là Nam Man.

Giáo Hội cũng:
“3- Kêu gọi nhà cầm quyền Hànội hãy nhanh chóng phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN theo lập trường 4 điểm mà Viện Hóa Đạo đã đề xuất (trước đây). Trong đó có việc: “Đưa Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, mà đảng Cộngsản và nhà nước CHXHCNVN đã thiết lập năm 1981, ra khỏi Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, một cơ quan ngoại vi của đảng Cộngsản”.
Việc này đồng nghĩa với việc tất cả các giáo hội của mọi tôn giáo đang sinh hoạt công khai hợp pháp tại Việtnam, phải được ra khỏi quy chế “xin cho” của Pháp Lệnh Tín Ngưỡng Tôn Giáo, hiện buộc các giáo hội đó phải nằm trong và do Mặt Trận Tổ Quốc trực tiếp điều khiển. Đây là thực trạng của các tôn giáo tại Việtnam đang bị nhà cầm quyền Việtcộng dùng luật lệ phi pháp và tổ chức ngoại vi của đảng Cộngsản để trói buộc các giáo hội vào một cơ chế độc tài toàn trị, chứ không phải là việc công nhận quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng như ở các chế độ dân chủ pháp trị. Nên GHPGVNTN:
“4- Tiếp tục vận động dân chủ nhân quyền và tự do tôn giáo thực sự tại Việtnam cho đến khi đạt mục đích” .
Năm điều còn lại thuộc về vấn đề nội bộ của Giáo Hội như:
“5- Kiện toàn nhân sự HĐLV, củng cố và tiếp tục thành lập Ban Đai Diện GHPGVNTN các Miền, các tỉnh thành, và đặc biệt là kiện toàn đoàn thể Gia Đình Phật Tử Việt Nam. 6- Tùy hoàn cảnh địa phương, tổ chức các khoá tu học, các khóa hội thảo Phật Pháp, Tu Bát Quan Trai, hành thiền…tạo điều kiện cho Phật Tử tại gia học Phật. 7- Hơn bao giờ hết, hàng xuất gia cũng như tại gia nỗ lực hành trì Giới-Định-Tuệ để tích tập phước đức tự thân trang nghiêm Giáo Hội, nêu cao đời sống phạm hạnh. thiểu dục, tri túc và thận ngôn…nhằm ngự chế tình trạng suy thoái như hiện nay trong đời sống xã hội. 8- Đề cao cảnh giác trước mưu toan xảo trá, luận điệu xuyên tạc, vu khống, lường gạt của các thế lực vô minh, của nội ma ngoại chướng đang nỗ lực đánh phá GHPGVNTN. 9- Sau hết đối với chư tôn đức và số đoàn viên Gia Đình Phật Tử, đã từ bỏ GHPGVNTN, nếu thấy cần thành lập một tổ chức Phật Giáo khác, điều đó không ai cấm cản. Nhưng chúng tôi phản đối việc sử dụng danh xưng GHPGVNTN khi không tuân thủ nội dung Hiến Chương GHPGVNTN”.
Nghị quyết 9 điểm của Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN xuất hiện đúng lúc, đúng thời, đúng thế của hoàn cảnh Việtnam. Trong khi thế giới đang rối mù vì cuộc khủng hoảng tài chánh quốc tế. Hoakỳ là siêu cường duy nhất làm cho bọn Bành Trướng Bắc Kinh phải kiêng nể, đang trong thời kỳ chuyễn đổi chính quyền.. Nên chính sách “Nhập Nội Việt Nam” tuy nhất quán, nhưng không phải là không có kẽ hở. Nương vào đó, bọn Bành Trướng Bắc Kinh đã hà hơi tiếp sức cho nhóm Man Cộng Hànội, vùng lên chống phá quyết liệt chủ trương “Nhập Nội Việt Nam ” của Hoakỳ, qua việc Tư Doanh Hóa Kinh Tế, Tự Do Hóa Xã Hội, Dân Chủ Hóa Chế Độ. Cũng như Trungcộng, nhóm Mancộng tại Việtnam cũng chỉ chấp nhận để cho đảng viên làm kinh tế tư doanh, còn tìm mọi cách để giới hạn công cuộc tư doanh của tư nhân. Riêng về Tự Do Hóa Xã Hội, thì chúng để cho dân chúng tự do trong thế hổ lốn, sống chết mặc bay. Không cho thành lập các tổ chức Xã Hội Dân Sự, nhất là lãnh vực Tự Do Ngôn Luận, để bảo vệ và tranh đấu cho quyền lợi chính đáng của các công dân và các tập thể xã hội. Còn việc Dân Chủ Hóa Chế Độ, như sửa Hiến Pháp, cho Bầu Cử Trực Tiếp và sinh hoạt Chính Trị Đa Đảng thì bị cấm tiệt. Chính việc Việtnam không có Tự Do Dân Chủ Thực Sự, nên bọn Bành Trướng Bắc Kinh chỉ cần nắm được đảng và chính phủ tại Hànội là Việtnam trở thành thuộc quốc của chúng. Cho dù nhóm Man Cộng Hànội có thiết lập mối tương quan quân bình giữa Hoa, Mỹ và thế giới như chúng trông đợi, mà Việtnam chưa có Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền Thực Sự, thì vẫn chỉ là một nước làm tôi mọi cho các nước lớn mà thôi. Vậy việc GHPGVNTN tiếp tục vận động dân chủ nhân quyền và tự do tôn giáo thực sự tại Việtnam là nhu cầu của Dân Tộc và của mỗi chúng ta.

Little Saigon ngày 18-11-2008.

Lý Đại Nguyên

Chỉ còn mấy ngày phù du là tới lúc cử tri Hoakỳ đến phòng phiếu để chọn 1 trong 2 liên danh Cộng Hòa McCain-Palin hoặc Dân Chủ Obama-Biden vào vị trí lãnh đạo quốc gia mình. Cuộc bầu cử diễn ra giữa thời điểm nước Mỹ và toàn thế giới rơi vào cảnh khủng hoảng tài chánh. Nên những vấn đề như bình ổn Iraq, giá dầu xuống thấp, đáng lẽ là lợi thế của đảng Cộng Hòa đương quyền. Nhưng liên danh Cộng Hòa McCain-Palin không thể lấy đó làm thành tích tranh cử, mà cứ phải cố chứng tỏ mình không là sự tiếp nối với chính sách của tổng thống Cộng Hòa Bush. Bởi thế liên danh Cộng Hòa bỗng trở thành “con vịt què" lẹt đẹt đuổi theo “con ô truy” Dân Chủ. Có lẽ, đảng Cộng Hòa đã giữ ghế Tổng Thống 2 nhiệm kỳ, người dân Mỹ muốn có một không khí mới mẻ hơn. Vì tất cả đều hiểu, dù ông thổng thống của đảng nào lên cầm quyền nước Mỹ, thì những vấn đề trọng đại đều do chính sách lưỡng đảng quyết định. Bởi thế, theo quán tính bầu cử, nếu cử tri chọn vị Tổng Thống của đảng này, thì bỏ phiếu cho Dân Biểu, Nghị Sĩ ở đảng kia, để lưỡng đảng kiểm soát lẫn nhau. Chính vì vậy, mà cử tri Mỹ rất yên tâm lựa chọn, lỡ mà chọn lầm thì đất nước cũng không vì thế mà lâm nguy. 4 năm sau bầu lại, hay 2 năm tới có thể trừng phạt một đảng nào đó ở cuộc bầu cử Quốc Hội giữa nhiệm kỳ. Và cũng vì vậy mà các ứng cử viên tha hồ cao giọng, hứa đủ thứ, đến khi ngồi vào vị trí rồi, cũng đành bó tay, nếu đó không hợp với chính sách lưỡng đảng.

Cái đúng của chính quyền Cộng Hòa Bush có thể lịch sử sẽ hậu xét, nhưng cái sai của chính quyền Cộng Hoà thì phe Dân Chủ nhất định phải tận lực khai thác ngay bây giờ. Điều đáng nói là đảng Dân Chủ đã chọn một nhân vật trẻ tuổi da đen có học, đại diện cho mình ra tranh ghế tổng thống. Việc đề cử này được cả thế giới hoan hô. Nó chứng tỏ, nước Mỹ không còn nạn kỳ thị chủng tộc, đã sẵn sàng chấp nhận một tổng thống da mầu. Lại cũng không phân biệt tôn giáo, khi TNS Obama chọn TNS Biden thuộc Kitô Giáo đứng phó. Vì từ xưa tới nay tổng thống, phó tổng thống Mỹ đều là đàn ông, da trắng, theo đạo Tin Lành, trừ có TT Kennedy theo Kitô Giáo, rồi bị ám sát. Phải nhận rằng nếu cử tri Âu Châu, Á Châu, Phi Châu được bỏ phiếu tồng thống Mỹ vào ngày 04-11 này thì họ nhất định sẽ bầu cho ông Barack Hussein Obama, vì họ có mất gì đâu, nếu có bị mất đó là nước Mỹ tự đánh mất vị thế Siêu Cường Vô Địch, khi mà cử tri Mỹ bầu nên một vị Tổng Thống không còn giữ truyền thống Tự Do Dân Chủ của cha ông mình. Mà bầu cho một ứng viên như Obama có cha là người Kenya, mẹ Mỹ, tuổi thơ ấu sống ở xứ Hồi Giáo Indonesia. Trong cuốn sách Dreams From My Father - Giấc Mơ Từ Cha Tôi của Barack Hussein Obama, ông đưa ra chủ điểm: “Bảo vệ và đưa lại quyền lực cho giới công nhân Hoakỳ… Phân phối lợi tức cho toàn xã hội” . Trong cuộc vận động tranh cử ông thường xuyên nhắc 2 chữ “wealth spreading - san bằng tài sản”. Đúng là ngôn ngữ mỵ dân của thứ Xã Hội Chủ Nghiã chết tiệt, mà bọn Mancộng Hànội vẫn còn quen dùng.

Trong một ngày đã có 610 Email gởi tới phản đối chủ trương nguy hiểm của Obama, rằng: “Anh không thể nào giúp người nghèo bằng cách tiêu diệt người giầu… Anh cũng không thể làm cho kẻ yếu được mạnh bằng cách tiêu diệt kẻ mạnh đi”. Rõ ràng, đây là một giấc mơ hoang tưởng của Obama. Nó còn hoang tưởng hơn cả các ông tổ cộng sản mơ về một Thế Giới Đại Đồng không giai cấp, rồi tự mâu thuẫn với lý tưởng của chính mình vừa tuyên xưng, là dùng Giai Câp Đấu Tranh để diệt Tư Bản, xây dựng chính quyền của Giai Cấp Vô Sản độc đảng, độc tài, toàn trị xã hội. Vì hoang tưởng và mâu thuẫn giữa lý tưởng và hành động, nên Thế Giới Cộng Sản đã bị xụp đổ trước sức phát triển của Thế Giới Tư Bản thực tế, thực dụng. Chính hệ thống Văn Hóa, Xã Hội, Chính Trị, Kinh Tế, Quân Lực hùng mạnh của nước Tư Bản Dân Chủ Hoa Kỳ đã lãnh đạo Thế Giới Tự Do đánh tan Thế Giới Hoang Tưởng Cộng Sản. Thế mà nay, đảng Dân Chủ, nhiều người có học và truyền thống Mỹ lại nhắm mắt ủng hộ cho Barack Hussein Obama thực hiện chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa hoang tưởng đó ngay tại Hoa Kỳ này mới lạ.

Nếu cứ tin vào những cuộc thăm dò và bình luận của các cơ quan truyền thông Mỹ hiện nay, thì chức Tổng Thống Mỹ hầu như sắp lọt vào tay TNS Obama. Như vậy với chức năng tổng thống liệu Obama có thực hiện nổi giấc mơ xã hội chủ nghĩa hoang tưởng để phá vỡ hệ thống Chính Trị Dân Chủ, Xã Hội Tự Do, Kinh Tế Thị Trường Tư Bản Năng Động Mở Rộng của Mỹ được không? Chắc là không. Nhưng nó vẫn có khả năng gây ra sự rối loạn nhất định trong niềm tin và sinh hoạt khắp mặt, góp với cuộc khủng hoảng tài chánh của Mỹ và toàn cầu, làm cho Mỹ mất dần tư thế lãnh đạo thế giới. Đây chính là mối lo của những người hiểu biết trong đại khối dân tộc Mỹ. Ứng viên Cộng Hoà John McCain qua kinh nghiệm của tù binh trong cuộc chiến Việtnam, ông nói:
“Tôi thấu hiểu cái cảm giác sợ hãi. Nó chính là kẻ trộm trong bóng tối rình lấy đi sức mạnh của chúng ta. Tôi thấu hiểu tâm trạng của nỗi tuyệt vọng. Nó chính là kẻ thù phá huỷ ý chí của chúng ta. Tôi từng trải qua những kinh nghiệm đó trước đây. Tôi sẽ không bao giờ để cho chúng có cơ hội xuất hiện trở lại. Tôi là người Mỹ và tôi chọn con đường kiên quyết đấu tranh”
. Đây dù là kinh nghiệm bản thân của ông McCain trong khi bị tù, nhưng nếu nước Mỹ mà bị rơi vào cảnh tan nát thì cảm giác sợ hãi nơi mọi người biết sao mà kể.

Trong khi đó đại tướng Colin Powell, cựu Ngoại Trưởng nhiệm kỳ đầu của Tổng Thống George W. Bush, đàng viên cỡ lớn của đảng Cộng Hòa, bạn thân với TNS John McCain. Phát biểu trong một cuộc phỏng vấn được truyền hình khắp nước, đã tuyên bố ủng hộ ứng viên tổng thống của đảng Dân Chủ Barack Obama. Ông nói: “Ông Obama đạt tiêu chuẩn để trở thành một Tổng Thống thành công”. Và “…lấy làm thất vọng về chiều hướng không tích cực của chiến dịch vận động của ông McCain, và về quyết định của ông McCain chọn bà Sarah Palin ra đứng chung liên danh với ông”. Luật pháp Mỹ cấm kỳ thị chủng tộc, nên người tự trọng và tôn trọng luật pháp hết sức tránh động tới vùng nhậy cảm này. Nhưng với một người từng được đảng Cộng Hòa coi trọng, nắm vững đường lối chính sách Lưỡng Đảng của nước Mỹ như tướng Powell, chỉ vì vấn đề nhỏ nhặt, không ủng hộ cho gà nhà, mà lại chọn người cùng màu da để ủng hộ, thì trách làm sao tuyệt đại cử tri da trắng của cả Cộng Hòa lẫn Dân Chủ không bầu cho liên danh cùng mầu da với mình. Ông Obama được cử tri nhiều nước Âu, Á, Phi, vì cảm tình, vì quyền lợi hết mình muốn bầu cho ông. Không lẽ cử tri Mỹ lại không vì tình cảm, quyền lợi của nước mình để bầu cho ông McCain hay sao? Ông McCain cho đến phút chót vẫn tin là mình sẽ thắng. Nếu cuộc bầu cử ngày 04-11-2008 này ông John McCain thắng, tức là ngựa về ngược. Âu đó cũng do Tinh Thần Ái Quốc Truyền Thống của người Hoakỳ chiến thắng đấy mà thôi!

Little Saigon ngày 28-10-2008.

Lý Đại Nguyên

Sau hành vi Công An của chế độ Việtcộng canh gác cho bọn lưu manh côn đồ hành hung các tu sĩ và giáo dân ôn hòa cầu nguyện đòi công lý và sự thật trong vụ tranh chấp đất đai giữa giáo xứ Thái Hà và Nhà Chung với giới đương quyền TP Hànội. Sau khi nắm được lời tuyên bố của TGM Ngô Quang Kiệt trong cuộc họp với Hội Đồng Thành Phố, đại ý rằng: Không đòi lại đất đai và nhiều cơ sở của giáo hội, bị tịch thu, đã đang được dùng vào các việc công ích. Thế là bọn Việtcộng lập tức hô biến các khu đất đang tranh chấp, vốn là nơi du hý và chia chác cho nhau đó, thành 2 công viên của thành phố. Đây rõ ràng là hành động lưu manh “không ăn, đạp đổ” của bọn hạ cấp, chứ đâu phải là việc làm quang minh chính đại của một chính quyền. Điều hèn nữa là chủ trương của TGM Kiệt cũng như Hội Đồng Giám Mục Việt Nam là đối thoại thẳng thắn với chính quyền, thì nhà cầm quyền Hànội không dám, mà lại cho truyền thông công cụ của đảng công kích thậm tệ TGM Kiệt. Rồi ngày 15-10-08, phó chủ tịch UBND TP Hànội, Nguyễn Thế Thảo, trong cuộc họp với 30 đại diện ngoại giao đã đe dọa:
“sẽ đề nghị thuyên chuyển ông Ngô Quang Kiệt ra khỏi giáo phận Hànội”… “vì ông Ngô Quang Kiệt đã không còn đủ uy tín và tư cách để thực hiện chức trách như trước đây”.
Nói về uy tín và tư cách thì trong hàng ngũ Giám Mục Việt Nam, TGM Ngô Quang Kiệt là nhân vật hiện nay là ngôi sao sáng, không riêng gì trong việc lãnh đạo giáo dân của Tổng Giáo Phận Hànội, mà còn là lực cuốn hút đối với toàn thể giáo dân Việtnam trong và ngoài nước, được dư luận toàn dân và toàn thế giới coi trọng. Vì chính Ngài đã làm rạng danh Giáo Hội Công Giáo Việt Nam khi khẳng định: “Tự Do Tôn Giáo là Quyền, chứ không phải là cái ân huệ xin cho”. Tức là chính thức tỏ thái độ không nhìn nhận thứ Pháp Lệnh Tín Ngưỡng Tôn Giáo “xin cho” của nhà nước Việtcộng. Như vậy uy tín và tư cách của TGM Ngô Quang Kiệt đối với quốc dân và quốc tế đang lên cao. Nhưng đối với nhà nước Việtcông thì chẳng ưa chút nào, nên đang tìm mọi cách để đẩy Ngài ra khỏi thủ đô. Việc TGM Kiệt có bị chính thức đẩy khỏi Hànội hay không? Trách nhiệm đó thuộc về Tòa Thánh Vatican. Vì nếu đơn phương Việtcộng dùng sức mạnh đuổi Ngài Ngô Quang Kiệt ra khỏi Hànội, mà không được sự chấp thuận của Giáo Hoàng thì về chức năng Hội Thánh, dù ở đâu, hoặc ở trong tù thì Ngài Ngô Quang Kiệt vẫn đương nhiên là Tổng Giám Mục thành Hànội.

Khi dư luận quốc tế lên tiếng về việc nhà nước Việtcộng bách hại Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và các giáo hội dân lập, thì họ tìm mọi cách chối quanh, rằng ở Việtnam không có bách hại tôn giáo. Ở Việtnam các giáo hội đều được tự do. Nay đối với Công Giáo là một giáo hội đang được nhà nước Việtcộng công nhận, mà họ cũng có những hành động vi phạm trắng trợn, và lẩn tránh đối thoại như vậy, thì trước dư luận quốc tế, nhà nước Việtcộng đương nhiên tự thú nhận họ đã đàn áp, ngược đãi tôn giáo thật. Ngoài vấn đề Tự Do Tôn Giáo, vấn đề Tự Do Ngôn Luận hiện nay đang được dư luận quốc tế đặc biệt quan tâm. Với vụ án tham nhũng PMU18 có tầm mức quốc tế. Liên hệ đến Bộ Giao Thông Vận Tải, khiến một bộ trưởng phải mất chức, thứ trưởng Nguyễn Việt Tiến, tay chân của TBT Nông Đức Mạnh bị bắt từ tháng 04/06 đến ngày 25-03-2008, được nhìn nhận là vô tội và ra khỏi tù. Lập tức những người có công phanh phui vụ tham nhũng lớn này bị trả thù. Ngày 12-05-2008, Nhà báo Nguyễn Việt Chiến của tờ Thanh Niên và nhà báo Nguyễn Văn Hải của tờ Tuổi Trẻ bị bắt giam. Cựu thiếu tướng Phạm Xuân Quắc và thượng tá Đinh Văn Huynh cầm đầu điều tra vụ PMU 18 bị cơ quan an ninh bộ công an khởi tố về tội lợi dụng chức quyền trong khi thi hành công vụ.

Sáng 15-10-2008, tòa án Nhân Dân thành phố Hànội phán quyết, NB Nguyễn Việt Chiến, không nhận tội, bị án 2 năm tù giam. NB Nguyễn Văn Hải nhận tội, bị án 2 năm cải tạo không giam giữ. Thiếu tướng Phạm Xuân Quắc bị cảnh cáo. Thượng tá Đinh Văn Huynh bị án 1 năm tù giam về tội làm lộ công tác. Trước đó Ban Tuyên Giáo Trung Ương cộng đảng với sự có mặt của trưởng ban Tô Huy Rứa đã họp với nhiều tờ báo để đề ra định hướng tường thuật vụ xử án. Trung tướng Việtcộng, Vũ Hải Triều phó tổng cục trưởng Tổng Cục An Ninh nói:
“Lãnh đạo đảng Cộng Sản đã kết luận vụ án PMU18 chỉ là vụ án đánh bạc, cá độ bóng đá, nhưng đã bị đẩy lên thành vụ tham nhũng, gây ra dư luận rất xấu”
Tóm lại là Bộ Chính Trị và Ban Bí Thư Trung Ương Đảng, cầm đầu bởi Nông Đức Mạnh đã trực tiếp can thiệp vào vụ bao che cho tham nhũng PMU18 này. Đài truyền hình Mỹ CNN nói:
“Các cơ quan truyền thông đã từng kêu gọi thả hai nhà báo, và cho rằng, việc bắt họ sẽ chỉ làm nản chí việc đưa tin chống tham nhũng”
Báo The Guardian của Anh nhắc đến chi tiết các tờ báo ở Việtnam đã từng đồng loạt lên án việc bắt giữ 2 phóng viên, nhưng
“chính quyền nhanh chóng bóp chẹt truyền thông do nhà nước kiểm soát và từ đó rất ít thông tin về họ được công bố”
Đến đây thấy rõ được rằng: Cộng Đảng dưới quyền lãnh đạo của Nông Đức Mạnh đã đẩy chế độ Việtcộng xuống tới mức “Man Rợ” trước mặt Thế Giới Thời Đại Toàn Cầu Hóa, để tự nhận lấy cái tên “Man Cộng” cho đúng nghĩa, đúng bản chất của con người và chế độ tồi bại đó.

Nếu còn dùng chữ “Việt” thì chỉ xấu hổ thêm cho Việtnam mà thôi. Vì cho dù đó là nhà cầm quyền Việtcộng chuyên môn dối trá và khủng bố, cũng không đến nỗi đốn mạt phải dùng tới bọn côn đồ lưu manh, hoặc bọn Công An của nhà nước đội lốt lưu manh côn đồ để thường xuyên hành hung những người dân oan trước nay, và đánh đập những giáo dân, tu sĩ chỉ hiền lành cầu nguyện như vậy. Cũng không công khai trắng trợn tùy tiện trước dư luận quốc tế bẻ quẹo luật pháp, biến kẻ có tội thành vô tội, kẻ vô tội thành có tội, nhằm bao che cho bọn tham nhũng, mà không một nghị quyết nào của cộng đảng không đặt việc chống tham nhũng lên hàng đầu. Bọn Cộng không xứng đáng dùng tên Việt đứng trước, vì chúng không còn là người Việtnam. Chúng đang theo lệnh quan thầy Tầucộng, để nhân Thị Trường Tài Chánh Thế Giới rối loạn, nước Mỹ đến gần ngày bầu cử Tổng Thống, hết gọi Nông Đức Mạnh, đến Nguyễn Phú Trọng sang Bắc Kinh để ra lệnh. Nay buộc Nguyễn Tấn Dũng sang Tầu để ký vào những văn bản dâng đất, hiến biển, nhường đảo Hoàng Sa, Trường Sa và những quyền lợi kinh tế trọng yếu của Việtnam cho chúng. Thử hỏi bọn cộng sản Nông Đức Mạnh còn có thề gọi là Việtcộng được nữa hay không? Đề nghị nên gọi bọn họ là Mancộng tay sai Tầucộng, thay cho Việtcộng.

Little Saigon ngày 21-10-2008.

-Lý Đại Nguyên-

Cuộc đấu tranh tự do dân chủ nhân quyền cho Việtnam là một cuộc đấu tranh cam go, hung hiểm với một tập đoàn gian trá, lỳ lợm, không từ bỏ bất cứ thủ đoạn thâm độc, tàn ác, ngụy tạo, bất nhân, bất nhẫn, bất cần liêm sỉ nào, mà không đem ra sử dụng, và trong tay chúng đang điều khiển một guồng máy chính quyền khủng bố khổng lồ . Cuộc đấu tranh này đòi hỏi sức mạnh toàn tâm, toàn ý, toàn lực của toàn dân, toàn thế giới và toàn diện tương tác mới mong có kết qủa mau chóng. Tiếc rằng, về phía chúng ta vẫn còn là “nắm cát rời”. Tuy ước nguyện Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền chỉ là một, nhưng quyền lợi của các cá nhân, tập thể, và các thế lực quốc dân trong, ngoài nước và quốc tế lại khác nhau. Nên không tìm được “thế hợp đồng tác chiến” tốc chiến, tốc thắng. Nhất là kẻ địch biết cách khai thác những mâu thuẫn về nhận thức, thành kiến và sự nghi kị giữa các tôn giáo, đảng phái, giữa những “người phản tỉnh” và người chống cộng.

Còn chúng ta, nhất là ở hải ngoại này vốn là thế lực hậu thuẫn chính cho cuộc đấu tranh Tự Do Dân Chủ trong nước, thì vẫn mơ mơ, hồ hồ, cứ thản nhiên rơi vào bẫy của kè địch để chống phá nhau, lên án nhau, oán trách nhau một cách hăng say không thương tiếc. Chính vì vậy, mà cộng sản đã thành công trong kế sách dùng tôn giáo chống tôn giáo. Khi hết tác dụng thì chúng lại dùng ngay chính những cánh phản đồ của các tôn giáo đang bị bách hại trong nước, cũng nhân danh tôn giáo đó, cũng nhân danh chống cộng, để chống lại với Lãnh Đạo của tôn giáo mình đang trực diện đấu tranh gian khó với cộng sản ngay trên quê hương. Những vị lãnh đạo đó vốn là mối nguy cho chế độ cộng sản, mà họ càng đánh phá, càng đàn áp, thì uy thế của các vị này trong quốc dân và trên quốc tế càng lên cao. Nay, cộng sản dùng ngay người của chính tôn giáo đó phá hoại uy tín và niềm tin của tín đồ với Giáo Hội mình thì hậu quả tai hại biết là ngần nào. Do đó những người Quốc Gia Dân Chủ chân chính cần phải bình tâm, tĩnh trí đưa cuộc đấu tranh này ra khỏi vòng lẩn quẩn đánh phá lẫn nhau. Tùy hoàn cảnh và vị thế của mỗi tâp thể, mỗi thế lực mà áp dụng những chủ trương, phương pháp, phương tiện đấu tranh riêng. Nhưng nên hiểu tất cả đều cần tương tác với nhau để đẩy mau tiến trình Dân Chủ Hoá Việtnam.

Hiện nay. Tổng Giám Mục Hànội, Ngô Quang Kiệt đã chính thức công khai phát động phong trào Giáo Dân Đòi Công Lý và Sự Thật qua việc đòi đất tòa Khâm Sứ và Thái Hà. Ngài tuy không dùng khẩu hiệu: “Tự Do Tôn Giáo Hay Là Chết” có tính một mất, một còn như Lm Nguyễn Văn Lý, nhưng cũng dứt khoát quyết liệt và tích cực thể hiện: “Tự Do Tôn Giáo Là Quyền chứ không phải là cái ân huệ, xin cho”. Ngài đã bị hệ thống thông tin tuyên truyền của nhà nước Việtcộng xuyên tạc đánh phá dữ dội. Thành phố vội biến 2 khu đất đang tranh chấp thành 2 công viên, nhằm vô hiệu hóa việc tập trung cầu nguyện tranh đấu của Giáo Dân và Tu Sĩ. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nêu quan điểm, kêu gọi chính quyền sửa luật đất đai, cần quan tâm tới quyền Tư Hữu của người dân, và rằng:
“Một giải pháp thỏa đáng chỉ có thể đạt được nhờ đối thoại thẳng thắn, cởi mở và chân thành, trong hòa bình và tôn trọng lẫn nhau”.
Nhưng trong cuộc gặp giữa đại diện Hội Đồng Giám Mục với Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng Việtcộng ở Hànội ngày 01-10-08. Dũng đã nhắc lại lập trường cố hữu của Hànội là: “
Theo pháp luật và Hiến Pháp Việt Nam hiện hành, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý và nhà nước không thừa nhận việc đòi lại”.
Đồng thời Dũng còn kết án nặng nề Tổng Giám Mục Hànội, Ngô Quang Kiệt. Xem thế chủ trương đối thoại của Hội Đồng Giám Mục với Việtcộng đã bế tắc. Muốn buộc Việtcộng phải nghiêm chỉnh đối thoại, thì thế đấu tranh phải mạnh, đề đủ sức đe dọa tới an nguy của chúng.

Mới đây nhất, Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đã tuyên bố:
“…Tôi không có sợ bất cứ cái gì hết, dù tôi có chết… một cái chết vinh quang”, “…Nếu như mà có bị bắt đi chăng nữa thì đây cũng là hình thức tử vì đạo” “…Chúng tôi rất lấy làm vinh dự nếu được chết như thế” “… chúng tôi sẵn sàng chết cho sự thật” “…Chúng tôi không sợ, vì chúng tôi đang làm công việc không sai” “…chẳng có chút gì lo ngại và lo sợ cả” “…Người ta muốn bắt thì người ta bắt thôi. Mà sự thật vẫn là sự thật…”
Đây mới chỉ là biểu lộ ý chí và tinh thần sẵn sàng “tử vì đạo” cho công lý và sự thật của Ngài. Nhưng Ngài cần phải hành động cụ thể là đến từng nhà để yên ủi những thân nhân giáo dân có người bị bắt. Đến cầu nguyện cùng với các tu sĩ và giáo dân ở 2 công viên, tuy không có ảnh thánh, nhưng trong tâm tư mỗi người, nơi đó vẫn mãi mãi là Linh Địa, là Thánh Địa, nơi quy ngưỡng Tâm Linh Tín Hữu. Mỗi sinh hoạt của Ngài sẽ là tin tức được loan truyền đi khắp nơi, nuôi dưỡng cho cuộc tranh đấu đòi Công Lý và Sự Thật không bị tắt lịm. Có thế mới tạo được thế mạnh cho việc đối thoại của Hội Đồng Giám Mục với nhà cầm quyền Việtcộng. Có như thế mới khơi dậy được phong trào Hải Ngoại bừng lên yềm trợ cho Quốc Nội. Mới có cớ để cho Quốc Tế áp lực Việtcộng phải tôn trọng Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo của toàn dân Việtnam.

Mặc dù phía Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, ở hài ngoại đã hiệp thông với các tôn giáo cùng cầu nguyện cho cuộc đấu tranh đòi đất của Giáo Dân Công Giáo ở Thái Hà và tòa Khâm Sứ Hànội. Tại Hoa Kỳ, Thượng Tọa Thích Viên Lý, tổng thư ký Văn Phòng 2 Viện Hóa Đao đã lên tiếng trên đài truyền hình SBTN tán thán công cuộc tranh đấu của Ngài Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, linh mục, tu sỉ, giáo dân Thái Hà và Hànội. Trên đài Việt Nam Sydney Radio, Hòa Thượng Thích Không Tánh, Tổng Vụ Trưởng Từ Thiện Xã Hội của GHPGVNTN đã ca ngợi tinh thần tranh đấu của bà con Công Giáo cho Công Lý và Sự Thật, cùng dâng lời cầu nguyện cho
tất cả quý linh mục, quý tu sĩ và bà con giáo dân đang bị đàn áp… xin hãy giữ vững tinh thần để cho Công Lý và Sự Thật của mình được sáng tỏ và nhà cầm quyền cộng sản Việtnam phải trả lại những gì mà họ đã chiếm đoạt từ bấy lâu nay”.
Tuy vậy dư luận cũng đã nêu thắc mắc là: Tại sao Hòa Thượng Thích Quảng Độ lãnh đạo GHPGVNTN không chính thức lên tiếng yểm trợ cho cuộc tranh chấp này của người Công Giáo và cuộc đối thoại của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam? Đây là một điểm cực kỳ tế nhị. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vốn đứng trong thế đấu tranh quyết liệt đòi Tự Do Tôn Giáo, Nhân Quyền và Dân Chủ cho Việtnam một cách không khoan nhượng. Khác với thế đứng công khai hợp pháp của Hội Đồng Giám Mục đang được thừa nhận. Nên không thể chính thức lên tiếng tán thành chủ trương đối thoại với Nhà Nước của HĐGM. Và cũng không phát động phong trào đòi đất lại cho Giáo Hội mình. Vì có đòi thì Việtcộng sẽ chỉ trả lại cho Giáo Hội của nhà nước. Đâu cũng vào đấy! Nhưng ở đây, nên hiểu như một sự thật hiển nhiên là, cuộc tranh đấu Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền của GHPGVNTN lại đang ở thế tương tác hữu hiệu cho cuộc đòi hỏi Công Lý và Sự Thật của người Công Giáo. Vì mọi cuộc đấu tranh hiện nay đều phài hướng vào tiến trình Dân Chủ Hóa Chế Độ, do toàn dân mong đợi và thế giới hậu thuẫn mau thành tựu, thì mọi vấn đề mới được giải quyết hợp tình, hợp lý và hợp pháp.

Little Saigon ngày 07-10-2008.

Lý Đại Nguyên

Vì nhu cầu hợp pháp hóa tiền bạc tham nhũng phi pháp của đảng viên Việtcộng, và đáp ứng với đòi hỏi của Kinh Tế Thị Trường trong thời mở cửa là phải công nhận thành phần Kinh Tế Tư Doanh. Nên chế độ Việt Cộng Xã Hội Chủ Nghĩa đã cho đảng viên của mình “Làm Kinh Tế”. Cổ phần hóa các công ty quốc doanh, tạo điều kiện cho bọn đảng viên kinh tài Việtcộng thành “Tư Bản Đỏ”, dùng đất đai của toàn dân làm cổ phần để liên doanh với Tư Bản Ngoại Quốc, nuôi tham vọng biến Cộng đảng thành thứ công ty tư bản tài phiệt man rợ cực quyền toàn trị. Do đó Việtcộng đã mặc nhiên phải để cho dân làm chủ tài sản kinh doanh riêng của mình. Nhưng về mặt đất đai thì hoàn toàn nằm trong tay nhà nước quản lý, không cho người dân có quyền tư hữu. Chính vì vậy mà những kẻ có quyền, có thế tha hồ nhân danh luật lệ công hữu ruộng đất của nhà nước để chiếm đoạt ruộng cày của nông dân, ao vườn của dân lành, tịch thu điền sản của các tôn giáo. Tạo ra cảnh dân oan, giáo oan khắp nước.

Khác với các tôn giáo dân lập, như Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất của Miền Nam Tự Do, bị Việtcộng đặt ngoài vòng pháp luật, đã thực hiện ngay cuộc đấu tranh bất bạo động đòi Tự Do Tôn Giáo, còn Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vốn có mặt tại Miền Bắc Cộng Sản, vì Cộng Sản vẫn để cho Giáo Hội trực thuộc trong hệ thống Kitô Giáo Vatican của Giáo Hoàng, nên khi Việtcộng cướp được Miền Nam, các Giám Mục Miền Nam đương nhiên phải thống hợp với các Giám Mục Miền Bắc để trở thành Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, và cũng mặc nhiên phải nằm trong Mặt Trận Tổ Quốc do Cộng Đảng lãnh đạo. Chính vì vậy mà Giáo Hội Công Giáo Việt Nam bị thất thế trong việc tranh đòi tự do tôn giáo cho Việtnam. Nhưng Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt của Hànội cũng đã tìm ra đối sách để tự khẳng định vị thế của giáo hội mình trong cuộc đấu tranh chung của dân tộc. Qua việc phát động tu sĩ, giáo dân đòi lại Tòa Khâm Sứ, vốn thuộc chủ quyền hợp pháp của Tòa Tổng Giám Mục Hànội đã bị nhà nước Việtcộng tịch thu từ khi họ trục xuất Khâm Sứ Tòa Thánh khỏi Hànội.

Cuộc đòi tài sản của giáo phận Hànội nổ ra từ ngày 18-12-2007 lan xuống Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà, qua Hà Đông, vào Quảng Trị, Nha Trang, Đà Lạt, Sàigòn xuống Vĩnh Long, làm thành phong trào lớn rộng khắp nước. Nếu Việtcộng trả một nơi thì phài trả khắp nơi, trả cho Công Giáo thì phải trả cho các tôn giáo khác. Thế nên Việtcộng đã phải nhờ tới sự can thiệp của Hồng Y Tarcisio Bertone, Bộ Trưởng Ngoại Giao của Tòa Thánh mới tạm yên. Nhưng Việtcộng vốn không giữ lời hứa để giải quyết êm thấm vấn đề Tòa Khâm Sứ. Nên ngày 15-08-2008, tu sĩ, giáo dân Thái Hà lại tập trung tại khu đất bị tịch thu để cầu nguyện, hát thánh ca đòi Công Lý và Sự Thật. Lần này không riêng tu sĩ, giáo dân Thái Hà và Hànội, mà hầu hết các Giám Mục, Tu Sĩ và Giáo Dân của những Giáo Phận Miền Bắc cùng đổ về Thái Hà để bày tỏ thái độ quyết liệt, sẵn sàng vào tù và tử vì đạo để đòi hỏi công lý và nói lên sự thật. Măc dù Việtcộng đã sử dụng tới ngón đòn đê tiện là thuê bọn lưu manh, du đãng hành hung, nhục mạ các tu sĩ và giáo dân đang chuyên tâm cầu nguyện, trước sự canh chừng của công an nhà nước.

Ngay sau khi Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt sang Hoakỳ để thực hiện việc kết giao Huynh Đệ giữa giáo phận Hànội với giáo phận Orange về, thì cuộc tập trung cầu nguyện trước Tòa Khâm Sứ song song với Thái Hà lại diễn ra đông đảo và quyết liệt hơn. Trong một cuộc họp công khai với Hội Đồng Thành Phố Hànội, Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đã mạnh mẽ, thẳng thắn phát biểu rằng:
“Tự Do Tôn Giáo là Quyền, chứ không phải là cái ân huệ xin cho”
Như vậy là Ngài đã phủ nhận thứ “Pháp lệnh Tín Ngưỡng và Tôn Giáo” của nhà nước Việtcộng buộc các giáo hội được nhà nước công nhận phải sinh hoạt trong quy chế “xin cho”.Phản ứng của Việtcộng là cô lập 2 khu đất tòa Khâm Sứ và Thái Hà, biến nơi đây thành công viên. Đồng thời ngày 23-09-2008, gửi thư kiến nghị Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đòi
“xem xét, xử lý và đề nghị xử lý nghiêm minh theo quy định của Giáo Hội đối với Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, linh mục Vũ Khởi Phụng, các giáo sĩ Nguyễn Văn Khải, Nguyễn Văn Thật, Nguyễn Ngọc Nam Phong”.
Giám Mục Nguyễn Văn Nhơn, Chủ Tịch HĐGMVN, ngày 25-09-08 đã có văn thư trả lời:
“Sau khi xem xét, chúng tôi thấy các vị này không làm bất cứ điều gì đi ngược lại với giáo luật hiện hành của Giáo Hội Công Giáo”
. Đồng thời gửi kèm bàn Quan Điểm của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay như sau:
“1-Trước hết, nếu luật về đất đai còn nhiều bất cập thì sửa đổi cho hoàn chỉnh. Việc sửa đổi này cần quan tâm tới quyền tư hữu của người dân như Tuyên Ngôn Quốc Tề của Liên Hiệp Quốc về Nhân Quyền… Đây sẽ là tiền đề cho việc giải quyết tận gốc rễ những vụ khiếu kiện về đất đai và tài sản của người dân, đồng thời góp phần tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển vững bền của đất nước”
Rõ ràng là HĐGMVN đòi thay chế độ Công Hữu Xã Hội Chủ Nghĩa ăn cướp thành chế độ Tư Hữu Dân Quyền Tự Do. Còn lấp lửng, nhập nhằng, tùy tiện như hiện nay thì chỉ làm bậy mà thôi
2- Kế đến, đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi những người làm công tác truyền thông phải tôn trọng sự thật. Trong thực tế, đã có những thông tin bóp méo hoặc cắt xén như trong trường hợp tranh chấp đất đai tại Tòa Khâm Sứ cũ”.
Ở đây HĐGMVN đòi Tự Do Ngôn Luận trong sáng và chính trực, truyền thông không làm công cụ cho chế độ bưng bít xuyên tạc sự thật lừa dối dân chúng.
“3- Cuối cùng, truyền thống văn hoá và đạo đức của dân Việt vốn nhấn mạnh đến tình tương thân tương ái và sự hài hòa trong xã hội. Tuy nhiên khi giải quyết những tranh chấp gần đây, đáng tiếc là có những hành vi sử dụng bạo lực, làm mất đi tương quan hài hòa trong cuộc sống… Một giải pháp thỏa đáng chỉ có thể đạt được nhờ đối thoại thẳng thắn, cởi mở và chân thành, trong hòa bình và tôn trọng lẩn nhau”.
Đáng tiếc là HĐGMVN đang phải trực diện với những kẻ phi văn hóa, vô đạo đức, bất cố liêm sỉ, họ chỉ biết bảo vệ quyền lợi, địa vị của họ bằng bạo lực trấn áp, chứ không nghĩ tới tình tương thân, tương ái đồng bào, thể thống quốc gia, danh dự dân tộc. Bởi vậy họ không từ một thủ đoạn thâm độc, bần tiện nào mà không đem ra áp dụng đối với những người đòi hỏi Công Lý và Sự Thật, như Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, các tu sĩ, giáo dân và ngay cả Hội Đồng Giám Mục của quý Ngài, Cũng như đã từng đối phó với Hòa Thượng Thích Quảng Độ, các vị lãnh đạo trong Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN, các Tôn Giáo Dân Lập và những người đấu tranh cho Dân Chủ hiện nay. Nhưng một sự thật hiển nhiên là những người càng bị Việtcộng đánh phá, trù dập nhiều bao nhiêu, thi uy tín trong quốc dân, ngoài quốc tế càng được tôn quý bấy nhiêu. Vui mừng và hy vọng, qua Quan Điểm của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đây hẳn là sự nhập cuộc của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam trong, ngoài nước, tương tác với các tôn giáo bạn và toàn dân trong cuộc vận động Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền cho Việtnam sớm thành tựu.

Little Saigon ngày 30-09-2008.

Lý Đại Nguyên

Bản Phúc Trình thường niên 2008 về Tự Do Tôn Giáo Thế Giới của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, công bố hôm 19-09-2008, riêng phần Việtnam: “Bản phúc trình viện dẫn một số tiến bộ việc thực hiện khuôn khổ pháp lý về tôn giáo được đề ra các năm 2004-2005, chính phủ Việtnam công nhận thêm 4 giáo phái Tin Lành”. Trong đó: “Ủy ban Tôn Giáo Nhà Nước đã tổ chức một số chương trình đào tạo tu sĩ cũng như giúp các chính quyền địa phương thực hiện khuôn khổ pháp lý tôn giáo vừa nói…” Lên tiếng trong buồi phúc trình, ông John Hanford, Đại Sứ Lưu Động đặc trách Văn Phòng Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế thuộc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ giải thích lý do Bộ Ngoại Giao cảm thấy Việtnam đáng được rút tên ra khỏi CPC, tức là danh sách những nước cần quan tâm đặc biệt về hành động đàn áp tôn giáo. Ông viện dẫn rằng: “đã chứng kiến tình hình tôn giáo ở Việtnam có thay đổi trong vài năm qua, mà theo kinh nghiệm của ông, là một diễn tiến vượt bực mà chỉ trong giai đoạn 2, 3 năm của nhà nước đương nhiệm”.

Chẳng hiểu những kinh nghiệm của Đại Sứ Hanford rút ra từ đâu để ông cho là tình hình tự do tôn giáo ở Việtnam hiện nay là một diễn tiến vượt bực? Còn thực tế thì tình trạng tôn giáo Việtnam hiện nay còn tồi tệ hơn khi Việtnam chưa được rút tên ra khỏi danh sách CPC. Vì trong khi Việtnam bị đặt vào danh sách CPC là lúc họ đang cố gắng chứng tỏ với Mỹ và thế giới là Việttnam không còn đàn áp tôn giáo nữa, để được Mỹ lấy tên Việtnam ra khỏi danh sách quái ác đó, và được cho hưởng quy chế Thương Mại Bình Thường Vĩnh Viễn - PNTR - giúp Việtnam chính thức gia nhập WTO. Rồi ngay sau khi Việtcộng vào WTO và tổ chức thành công hội nghị thượng đỉnh APEC 14, thì lập tức, xuống tay đàn áp tôn giáo và những người đòi dân chủ mỗi lúc một khốc liệt hơn.

Có lẽ vì nhu cầu nhập nội Việtnam nằm trong chiến lược toàn cầu của Mỹ không thể chần chừ được nữa, nên chính quyền Bush đã mắt nhắm, mắt mở không để ý tới mưu đồ của Việtcộng là dùng thứ “Pháp Lệnh Tín Ngưỡng và Tôn Giáo” do Thường Vụ Quốc Hội Việtcộng thông qua, để nhốt các tôn giáo đang được nhìn nhận sinh hoạt công khai tại Việtnam vào cáí cũi Mặt Trận Tổ Quốc của cộng đảng và bị triệt để đặt nằm trong quy chế “xin cho”. Nếu người Mỹ rút từ kinh nghiệm bản thân của chính sinh hoạt tôn giáo nước mình thì phải thấy được rằng: Theo tu chính án số 1 của Hoakỳ, 1791 thì: “Quốc Hội không được làm bất cứ luật nào không tôn trọng sự hình thành của tôn giáo, hay cấm đoán sự tự do hoạt động của tôn giáo”. Lập tức, họ thấy Việtcộng đang dùng thứ luật “phi pháp” nhằm kiểm soát tôn giáo, chứ không tôn trọng, bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Cho nên mới đây, ngày 20-09-08, trong cuộc họp với Ủy Ban Nhân Dân Hànội về vụ tranh chấp đất Thái Hà giữa nhà nước và giáo hội Thiên Chúa, Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt của Thiên Chúa Giáo, một giáo hội đã và đang bị đặt trong quy chế “xin cho” đã thẳng thắn mạnh mẽ phát biểu: “Tự Do Tôn Giáo là Quyền, chứ không phải là cái ân huệ “xin cho”. Chính vì vậy mà các Tôn Giáo Truyền Thống Dân Lập tại Việt Nam, như Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã không chấp nhận chui vào cái quy chế “xin cho” đó. Đây mới là kinh nghiệm thiết thân về tự do tôn giáo tại Việtnam, mà ông Đại Sứ Hanford cần quan tâm.

Một điều đáng phàn nàn là trong bản phúc trình của Mỹ ghi nhận việc Ủy Ban Tôn Giáo Nhà Nước đã tổ chức một số chương trình đào tạo tu sĩ. Giới chức Mỹ thừa biết các tôn giáo trong thiên hạ đều có một nguyên tắc chung là việc đào tạo tu sĩ phải do chính các tu viện của các tôn giáo ấy huấn dục nghiêm nghặt, theo với giáo lý, giáo pháp, giáo răn của mỗi tôn giáo riêng biệt, chứ không thể trao cho chính quyền đào tạo, để trở thành các chuyên viên tu sĩ quốc doanh. Nhất là với chế độ cộng sản vô thần độc tài toàn trị, vì tiêu diệt tôn giáo không nổi, nay sản xuất ra một loại tu sĩ quốc doanh để cầm đầu các tôn giáo, biến các tôn giáo thành công cụ khống chế tinh thần, tư tưởng của toàn dân. Đây là vịệc phá hoại tinh thần tôn giáo, tiêu diệt tận gốc rễ các giáo hội. Thế mà Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cho đây là tiến bộ thì thật hết nói.

Phải nhận ra một sự thật là Việtcộng làm gì hiện nay cũng đều trông chừng vào thái độ của Hoakỳ. Khi Hoakỳ đặt Việtnam trong danh sách CPC thì Việtcộng nương tay với các tôn giáo, khi thấy Mỹ đặt nặng vấn đề nhập nội Việtnam hơn vấn đề tự do tôn giáo, như bản phúc trình 2008 thì Việtcộng mạnh tay đàn áp tôn giáo và giới đấu tranh cho dân chủ. Việc Việtcộng dùng biện pháp mạnh đối với vụ Giáo Dân đòi đất Thái Hà và Giáo Phận Hànội đòi tòa Khâm Sứ là một bằng chứng cụ thể. Đã đến lúc chính phủ Hoakỳ cần phải có hành động nào đó để đánh tan dư luận cho rằng: Bản Phúc Trình Tự Do Tôn Giáo của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ 2008 đang “nối giáo cho giặc”. Nếu Bộ Ngoại Giao không muốn làm mất mặt cả đôi bên là theo yêu cầu của Ủy Ban Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo Thế Giới thuộc Quốc Hội Mỹ - USCIRF – đưa Việtnam trở lại danh sách CPC, thì cũng có nhiều biện pháp đặc biệt, nhằm cho Hànội thấy một tín hiệu về vấn đề tự do tôn giáo và nhân quyền là ưu tiên hàng đầu trong mối bang giao Mỹ, Việt, chẳng hạn như việc Thượng Viện Mỹ thông qua Đạo Luật Nhân Quyền Việt Nam. Để vừa làm áp lực, vừa giúp chính quyền Mỹ dễ đối thoại với Việtcộng hơn.

Trường hợp Việtnam hiện nay, phải được đặt trong hoàn cảnh cá biệt. Không thể ghép chung vào danh sách CPC, vì trong nhất thời Mỹ vừa cần nhập nội toàn diện Việtnam, vừa muốn Việtnam phải Dân Chủ Hóa chế độ, để trở thành thứ “Lá Chắn Tinh Thần Vững Mạnh Lâu Dài” đủ sức ngăn đươc tham vọng bành trướng của Bá Quyền Trung Cộng. Bởi vậy, tình trạng lạm phát phi mã hiện nay dù có thế nào, cũng chỉ là làm áp lực cho nhà nước phải thay đổi. Dân chúng bất mãn đấu tranh quyết liệt tới đâu thì cũng ở mức áp lực buộc nhà cầm quyền phải dân chủ hóa, chứ Mỹ không muốn Việtnam rơi vào biến loạn. Nhưng đáng buồn là Việtcộng lợi dụng chính sách không thể dứt khoát đó của Mỹ để kéo dài thêm thời gian cầm quyền của một chế độ độc tài tham nhũng, chứ không vì Dân Tộc và Quốc Dân mà sớm tạo điều kiện cho đất nước đi lên. Ngay việc cho Dân trực tiếp bầu Chủ Tịch Xã để thực hiện nền Dân Chủ Trực Tiếp, thì Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng Việtcộng cũng ra chỉ thị là phải tuyệt đối đặt dưới sự lãnh đạo của đảng. Xem vậy, đây chỉ là thứ dân chủ giả hiệu, cũng vẫn độc đảng, độc tài, tham nhũng, toàn trị, lạc hậu như xưa. Như thế, không những đòi hỏi Hoakỳ phải có quyết sách đặc biệt về Việtnam, mà toàn dân trong và ngoài nước cần phải quyết tâm đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền cho Việtnam.

* Little Saigon ngày 23-09-2008.

-Lý Đại Nguyên-

Trên trang Chính Trị Xã Hội trong báo Người Lao Động của Việtcộng, đề ngày 24-08-2008, đăng bài của tác giả Thái An với đề tài: "Thí điểm bầu trực tiếp Chủ Tịch Xã từ năm 2009. Bước Đột Phá Để Mở Rộng Dân Chủ Cơ Sở. Đề án thí điểm không tổ chức HĐND cấp quận , huyện, phường và thí điểm nhân dân bầu trực tiếp chủ tịch UBND xã đang được Bộ Nội Vụ soạn thảo, để thực hiện thí điểm từ năm 2009, sau khi HĐND các cấp nhiệm kỳ 2004-2009 kết thúc. Đề án thực sự là bước đột phá trong đổi mới tư duy, tầm nhìn, hành động và là bước tiến lớn trong việc mở rộng và phát huy dân chủ ở cơ sở". Theo cơ chế của nhà nước Việtcộng hiện nay, thì các cấp tỉnh, quận, huyện, phường, xã đều có Hội Đồng Nhân Dân để bầu ra và kiểm soát chủ tịch và Ủy Ban Nhân Dân. Nhưng đứng trên đầu 2 cơ chế này là Đảng Ủy và Viên Bí Thư đầy quyền lực, ở mọi cấp, mà vô trách nhiệm về mặt hành chánh và luật pháp nhà nước.

Đây là cái gốc của việc lạm quyền, tham nhũng, hà hiếp, đàn áp, bóc lội người dân lành Việtnam khốn khổ. Cảnh Dân Oan hiện nay, đểu do đơn vị hành chánh cấp xã thực hiện theo chỉ thị từ thượng cấp. Chính vì vậy, mà lâu nay, các nước như Thụy Điển có thiện chí, muốn cố vấn và tài trợ cho Việtcộng cải tổ hệ thống hành chánh trì trệ, thối nát, tùy tiện, thảy đều bất lực, đành chào thua. Nay, Việtcộng muốn làm một bước đột phá cho dân bầu trực tiếp người điều hành cơ sở gốc của Quốc Gia là vị đứng đầu xã, và guồng máy hành chánh Làng Xã ở nông thôn và Thị Xã ở đô thị. Giống như ỏ Hoakỳ và các nước Dân Chủ thành nếp sống lâu đời. Chính nơi đây, người dân mới ý thức và cảm nhận được quyền làm chủ xã hội và đất nước của mình. Mình thực sự biết rõ để chọn ra và kiểm soát những người điều hành Làng Xã, Thị Xã để đề ra những công việc cụ thể do nhu cầu của dân địa phương, và thực hiện luật lệ cũng như các chính sách nhà nước một cách nghiêm minh, nhằm phục vụ quyền lợi cả tinh thần, lẫn vật chất cho chính người dân, chứ không vì quyền lợi của kẻ thống trị, đảng phái cầm quyền, hoặc tôn giáo toàn thống. Đây mới là nền Dân Chủ Trực Tiếp, từ đó ý thức dân chủ trưởng thành để người dân đủ trình độ sáng suốt chọn bầu ra các thành phần lãnh đạo quốc gia. Đây là đường hướng xây dựng thể chế dân chủ đi từ gốc lên trên. Còn các cuộc gọi là cách mạng thì ưu tiên đoạt chính quyền trung ương, rồi mới thực hiện các lý tưởng này, nọ, hoặc thi hành xây dựng dân chủ. Tức là đi từ ngọn xuống, nên thường thì chẳng bao giờ tới được gốc, vì dễ rơi vào thế chuyên chế. Riêng với chủ trương của Quốc Tế Cộng Sản thì họ tự nhận họ thuộc chế độ Vô Sản Chuyên Chính. Họ chỉ vì quyền lợi của Nhân Dân Lao Động, không vì lợi ích của Người Dân Mỗi Nước. Đó là trên lý thuyết, còn thực tế, khi Cộngđảng cướp được chính quyền ở Nga. ở Tầu, ở Việt… thì những lãnh tụ trở thành Vị Vua cực quyền. Đảng trở thành Giai Cấp Thống Trị, Nhân Dân Lao Động và Toàn Dân đều trở thành những tên Nô Lệ Khổ Sai, Trí Thức bị hèn hóa chỉ biết phục vụ cho ý muốn hoang tưởng và quyền lợi của lãnh tụ và cộngđảng. Đó là nguyên nhân nội tại, tương tác với duyên ngoại lai của chiến lược Mỹ, tạo ra cảnh huynh đệ tương tàn, làm cho Quốc Tế Cộng Sản sụp đổ.

Cộngsản Tầu, Cộngsản Việt tuy đã đầu hàng Tưbản, nhưng không dám thực hiện dân chủ đúng nghĩa, chỉ muốn đổi từ cộng sản bao cấp thành tư bản bóc lột, để được nhận vào kinh tế thị trường. Vì muốn có những thị trường nhân dụng rẻ tiền, nên tư bản các nước kỹ nghệ cũng hăm hở đổ vốn đầu tư vào làm ăn, và mở rộng thị trường tiêu thụ nội địa cho hàng của Tầu, Việt nhập cảng. Thế nhưng vì lợi nhuận lâu dài của giới tư bản và vị thế chiến lược của Mỹ và các cường quốc Dân Chủ, họ vẫn dùng áp lực Nhân Quyền để buộc các nước còn duy trì cơ chế độc đảng độc tài như Tầucộng, Việtcộng phải tuân thủ những đòi hỏi thực tế của họ. Đồng thời từng bước phải thay đổi chế độ và luật pháp cho hợp với nhu cầu kinh tế thị trường toàn cầu hóa. Vì nguyên tắc phát triển của kinh tê thị trường là phải Dân Chủ Hóa Chế Độ. Có như vậy người dân ở các nước Dân Chủ Tự Do mới trở thành khách hàng tiêu thụ sản phẩm của kỹ nghệ tư bản, và những Quốc Gia đó mới đủ khả năng tài chánh để trang bị kỹ thuật cao của Mỹ trong sản xuất và phòng thủ đất nước. Chính vì vậy mà mấy năm gần đây. Hoakỳ đã tài trợ cho Tầucộng tổ chức bầu cử trực tiếp tại một số thí điểm Xã Ấp. Nhưng Tầucộng đã lươn lẹo, không cho bầu cử trực tìếp ở đơn vị Hành Chánh Gốc là Xã, mà chỉ cho bầu các Trưởng Thôn, Trưởng Ấp. Xã vẫn nằm trong hệ thống tham nhũng của các cấp ủy đảng. Bởi vậy các Trưởng Thôn, Trưởng Ấp do dân bầu mới vì quyền lợi của dân, tổ chức các cuộc biểu tình đòi quyền sống, mà mỗi năm có tới hàng Trăm Ngàn vụ xẩy ra ở Trungcộng.

Nay Việtcộng đi xa hơn Tầucộng một bước, là dự định cho dân bầu trực tiếp Chủ Tịch Xã, người cầm đầu Ủy Ban Nhân Dân Xã. Tức là đơn vị Hành Chánh Gốc của Nhà Nước. Định bỏ các Hội Đồng Nhân Dân Xã, Phường, Huyện, Quận, mà chỉ tăng cường thành phần HĐND tỉnh, và thành phố trực thuộc Trung Ương. Nhưng xem ra Cộngđảng vẩn duy trì thứ Đảng Ủy và Viên Bí Thư Xã để nắm đầu Chủ Tịch Xã và Ủy Ban Nhân Dân Xã. Rồi trao cho Mặt Trận Tổ Quốc đứng ra tổ chức bầu cử theo công thức bầu bán lạc hậu "Đảng Cử Dân Bầu". Như vậy dù dân có bầu ra Chủ Tịch Xã thì vẫn bị thứ cơ chế Đảng Lãnh Đạo, Nhà Nước Quản Lý và Dân vẫn Làm Mọi như xưa. Đây là một trò bịp lớn, không chỉ bịp toàn dân Việt, mà bịp luôn cả Mỹ, bịp toàn thể dư luận quốc tế.

Việc Người Dân trong Xã trực tiếp bầu Xã Trưởng và 4 hoặc 6 Nghị Viên Xã để quyết định đường lối và điều khiển hệ thống hành chánh xã là đúng với nhu cầu, và đòi hỏi của Nền Dân Chủ Trực Tiếp, mang tính thời đại. Lại rất hợp với truyền thống Dân Tộc đã có từ ngàn xưa. Đây là nguyên tắc "Phép Vua Thua Lệ Làng" trong hành trình bảo vệ tinh thần độc lập của Dân Tộc trước sức khống chế của các Đế Quốc, bắt Vua ta phải xưng thần, triều cống và nghe lệnh. Vì biết cách tổ chức đơn vị Làng Xã Tự Quản, nên thời bình dù Vua có bị xưng thần, thì dân vẫn nuôi được tinh thần Độc Lâp, thời chiến Làng Xã là đồn lũy chiến đấu trường kỳ. Dân Tộc Việt nhờ đó mới thoát khỏi một ngàn năm bị người Tầu đồng hóa, và một trăm năm bị Thực Dân Pháp cải hóa. Nhưng rồi chính Hồ Chí Minh và Việtcộng đã tiêu diệt tận gốc rễ hệ thống Làng Xã Tự Quản, qua việc nhận lệnh Nga, Tầucộng thực hiện Cải Cách Ruộng Đất. Rồi cấy vào đó thứ "Chi Bộ Cộng Sản Xã". Sau đó Việtcộng theo Nga thì bắt toàn dân phải thờ Nga, theo Tầu thì buộc toàn dân nô lệ Tầu. Nay, Việtcộng nếu muốn chuộc trọng tội đó với Dân Tôc và Toàn Dân thì nên khởi sự bằng việc tự hủy bỏ hệ thống Đảng Ủy tại Làng Xã, Thị Xã. Nghiêm chỉnh tổ chức một cuộc bầu cử thật sự tự do, công bằng, vô tư, trong sáng. Trao cho thành phần dân sự ngoài đảng, chính quyền và MTTQ, đứng ra tổ chức bầu cử tại Làng Xã, Thị Xã. Tập thể có nhân sự và khả năng làm việc đó ở Việtnam hiện nay là các Trường Đại Học. Vì sinh viên chỉ trong ngắn ngày là có thể học hiểu luật, phương pháp vận động, tổ chức bầu cử. Rồi từng nhóm trên mươi người do một Giáo Sư hướng đẫn về từng Làng Xã, Thị Xã tiến hành bầu cử. Chỉ có thế người dân mới tin tưởng, người được bầu ra mới thấy mình không bị thượng cấp ban ơn và lệ thuộc họ. Lúc đó chỉ biết có quyền lợi của dân và pháp luật của Quốc Gia Dân Chủ.

Little Saigon ngày 26-08-2008.

-Lý Đại Nguyên-

Phóng viên Thanh Trúc của Đài Á Châu Tự Do, ngày 31-07-08, trong cuộc phỏng vấn với mội sĩ quan trẻ của quân đội trong nước, nhân việc thay đổi một số tướng lãnh thuộc Quân Khu thủ đô Hànội, đã đặt ra câu hỏi:
“Tầng lớp sĩ quan trẻ trong Quân Đội Nhân Dân bây giờ có suy nghĩ như thế nào về vấn đề Trungquốc hiện nay? Họ có sợ Trungquốc không? Thì được trả lời: “Một số sĩ quan trẻ rất bức xúc về tất cả vấn đề Trungquốc, nào là hiệp định biên giới, rồi nào là Hoàng Sa, nào là Trường Sa. Toàn bộ hệ thống lãnh đạo của quân đội, đảng, nhà nước đều là hèn nhát cả, hèn nhát tới vô cùng luôn”.

“Hèn đến mức mà mình cảm tưởng không thể sống được nữa, nếu mình cứ tiếp tục như thế này. Chả biết mình chiến đấu vì ai. Người lính dù mặc bộ quần áo nào, mục đích đầu tiên là bảo vệ nhân dân và bảo vệ tổ quốc, và bảo vệ lãnh thổ, sau đó thì bảo vệ cái gì đó thì mình không biết, nhưng hai cái trước phải đặt lên hàng đầu. Cái thứ hai nữa là trong quá trình xây dựng chiến lược, phát triển các mối quan hệ quân sự thì mối quan hệ đầu tiên, lớn nhất, là hợp tác quân sự với Mỹ. Mặc dù đảng không thích Mỹ một chút nào luôn, có thể nói ghét là khác, nhưng dứt khoát phải dựa vào Mỹ”
Về quan hệ quốc phòng Việt-Mỹ, phóng viên Thanh Trúc đặt câu hỏi với viên sĩ quan trẻ kia rằng: “Những sĩ quan và chiến sĩ Quân Đội Nhân Dân Việt Nam có sự kỳ vọng gì vào thế hệ sĩ quan trẻ, hay có e ngại gì trong mối quan hệ với Hoakỳ không? Thì được thẳng thắn trả lời:
“Theo tôi thì cái tôi mong mỏi nhất là Mỹ mở rộng chương trình đào tạo quân sự cho Việtnam, theo cái chương trình mà Bộ Quốc Phòng Mỹ dành cho các nước, thì sẽ đào tạo những thế hệ sĩ quan trẻ để từ đó họ có - vì thế hệ trẻ bao giờ họ cũng có - tư tưởng khác với những thế hệ già cỗi như hiện nay và hèn nhát như hiện nay. Thế hệ trẻ bao giờ cũng có tư tưởng cởi mở hơn, và có thể nói, họ sẽ là những người hàn gắn lại mối đau chiến tranh mà cả dân tộc phải chịu đựng, chứ không phải bên nào, hoặc bên nào cả, cuộc chiến tranh qua đi đã lâu rồi đừng để nó đau đớn nữa”.

“Tất nhiên cá nhân tôi vẫn rất ghét Mỹ, vì thật ra Mỹ đã bán cả Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa rồi, bán đi những người gần gũi nhất của Mỹ. Về phần tôi, tôi vẫn có sự cảnh giác đối với Mỹ, thật sự đối với Trungquốc và ngay cả đối với Mỹ”. “Nhưng mà dứt khoát, chắc chắn rằng trong khu vực Đông Nam Á này, và khu vực Châu Á Thái Bình Dương, cả cái vùng này, người Mỹ không thể tìm được người bạn nào tốt hơn là người Việtnam cả. Tôi khẳng định như vậy”.
Trên đây là ý kiến của một sĩ quan trẻ trong quân đội Việtcộng- chưa nói tới đúng, sai - Tuy không thể cho đây là tiếng nói chung của quân đội Việtcộng, nhưng vẫn nhận ra được là Người Sĩ Quan Trẻ này và nhiều người cùng trang lứa, họ không còn tuân giữ giáo điều “Trung với Đảng” nữa. Họ đã thấy được toàn bộ hệ thống lãnh đạo của quân đội, đảng, nhà nước đều là hèn nhát, hèn nhát vô cùng. Khi những người lính đã thấy rõ bản chất lãnh đạo của mình là hèn, không có can đảm và khả năng bảo vệ được dân, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ lãnh thổ, trước sự lấn chiếm của Trungquốc, như trước kia, Quân Lưc Việt Nam Cộng Hòa năm 1974 đã chiến đấu chống lại cuộc xâm lăng quần đảo Hoàng Sa của Trungcộng, mà nhiều chiến sĩ VNCH đã chết trong trận chiến đó. Theo viên sĩ quan trẻ này thì:
"54 người lính có thể nói là những anh hùng của đất nước đã hy sinh ở đó, chính là những người lính Việtnam Cộnghòa”.
Một người sĩ quan được đào tạo trong lò cộng sản sắt máu, hận thù, mà thấy đảng, nhà nước, quân đội mình hèn, bất xứng trong vai trò lãnh đạo, không bằng được kẻ địch xưa của họ là Việtnam Cộnghòa, anh đã công khai vinh danh người lính cộng hòa là anh hùng của đất nước, thì chế độ mà anh phục vụ đã hết thuốc chữa rồi. Chắc đây không chỉ là trường hợp đơn lẻ, mà phải là phản ảnh tâm tình, suy tư của rất nhiều đồng đội của anh. Giới lãnh đạo Việtcộng cũng biết rõ điều đó, nên họ đã không còn dám trói quân đội của mình trong quan hệ thầy trò với Trungcộng nữa, mà trao cho Hoakỳ, kẻ thù xưa và là nhà hợp tác nay, để đào tạo quân đội của họ đủ điều kiện và khả năng tham dự vào Chương Trình Sáng Kiến Hoạt Động Hòa Bình Toàn Cầu – Global Peace Operations Initiative – qua đó tham gia vào các khóa huấn luyện và sinh hoạt khác của hoạt động gìn giữ hòa bình chung.

Khi Việtnam đã chính thức được tham gia hợp tác với Hoakỳ trong chương trình trên, thì chỉ còn một bước ngắn nữa là Mỹ- Việt sẽ tiến tới ký một Hiệp Ước An Ninh Toàn Diện, để cho lời cam kết của chính phủ Hoakỳ ủng hộ chủ quyền quốc gia, an ninh, và toàn vẹn lãnh thổ Việtnam thành hiện thực. Lúc đó thì chiến hạm Hoakỳ có đủ danh nghĩa và tính hợp pháp ra vào lãnh hải Việtnam, nhằm bảo vệ cho những công ty khai thác dầu lửa của mình, và các công ty quốc tế, như Anh, Nhật, Ấn và ASEAN đang liên doanh với Việtnam tại Biển Đông. Việtnam và các công ty khai thác dầu khí ở đây, không còn sợ bị hạm đội của Trungcộng đe dọa nữa. Mặc cho Trungcộng có thành công trong việc xây dựng hạm đội tầu ngầm nguyên tử ở đảo Hải Nam hay không cũng vậy. Vì Trungcộng chỉ có khả năng và can đảm bắt nạt từng nước nhỏ, chứ chưa dám đụng tới Một Cuộc Thế Chiến. Nhất là kinh tế Trungcộng đang lệ thuộc vào thị trường và vốn đầu tư quốc tế. Họ không ngu dại gì mà đập vỡ hũ gạo của mình. Viễn ảnh cho thấy, hung hăng, hục hặc cách mấy thì cuối cùng Trungcộng cũng đành phải xuống nước, xin sống chung hòa bình, để được chia phần hợp tác khai thác dầu khí ở Biển Đông, như đang làm thế với Nhật ở vùng Điếu Ngư Đài, nơi tranh chấp Nhật – Trung.

Về thế quốc tế thì việc hợp tác chiến lược và kinh tế giữa Mỹ-Việt chỉ có đi tới, không thể đi lui. Nhưng về mặt chính trị thì Việtcộng vẫn còn ngoan cố, chưa chịu mở rộng Tự Do Hóa Xã Hội, vẫn xiết cổ truyền thông, quản thúc báo chí. Vẫn tăng cường sự lãnh đạo của đảng với báo chí. Vẩn không chấp nhận Tư Nhân Hóa lãnh vực truyền thông và Tự Do Ngôn Luận. Đây vốn là linh hồn của mọi lãnh vực Tự Do Xã Hội, kể cả Tự Do Tôn Giáo, Tự Do Lập Đảng, Tư Do Nghiệp Đoàn…Nghĩa là Cộngđảng vẫn muốn nắm độc quyền toàn trị cả về các mặt Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp, Quân Đội và Công An để thống trị tòan dân. Vẫn coi dân là đối tượng để khủng bố, bóc lột qua các Tổng Công Ty Quốc Doanh, với hệ thống Hành Chánh Tham Nhũng và Công An Trị. Khi một chế độ độc tài tham nhũng đã không Tôn Trọng Dân của mình, thì không thể dựa được vào dân, tất phải dựa vào các thế lực ngọai bang để tồn tại. Thế nên Việtcộng theo Tầu thì ngoan ngoãn làm đầy tới cho Tầu, ngày nay có theo Mỹ thì cũng sẵn sàng làm đầy tớ cho Mỹ. Dù do quyền lợi phát triển kinh tế của Tư Bản Mỹ, Hoakỳ luôn luôn đòi hỏi Việtcộng phài Tôn Trọng Nhân Quyền và Dân Chủ Hóa chế độ. Nhưng trong nhất thời thì với một tên đầy tớ dễ sai, so với một người bạn mới còn nhiều nghi nan, thì hệ thống “bàn giấy” Mỹ rất dễ bị sa ngã. Cuộc đấu tranh Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền của toàn dân Việt trong, ngoài nước của chúng ta vẫn chưa hết khó khăn.

Little Sàigòn ngày 12-08-2008.

Lý Đại Nguyên.

Trong khi nền kinh tế Việtnam đổ dốc, tỷ lệ lạm phát trong tháng 06/08 tăng vọt lên tới 26.8%, buộc nhà cầm quyền Hànội phải cắt giảm chỉ tiêu tăng trưởng của năm 2008 từ trên 8.5% xuống tới 7%. Một chuyên viên Ngân Hàng Phát Triển Á Châu -ADB- cho rằng: “Rất có thể lạm phát sẽ vượt qua mức 30% vào tháng này, và lãi xuất căn bản về cho vay tiền tại ngân hàng đang từ 14% hiện nay tăng thêm 2%”. Kinh tế gia này cũng tiên đoán: “Mức tăng trưởng GDP của Việtnam trong năm 2008 sẽ giảm xuống còn 6.4%”.Hiện nay Việtnam hoàn toàn lệ thuộc các sản phẩm dầu nhập khẩu, 6 tháng đầu năm nay đã phải chi ra 5 tỷ 900 triệu USD, nhiều hơn năm ngoái tới 69%, vì giá dầu quốc tế tăng mỗi ngày đến chóng măt. Trong khi các biện pháp giảm lạm phát của Việtcộng thì chắp vá, nửa vời, họ không dám bứng cáí gốc của nó là các Tổng Công Ty Quốc Doanh và cả một hệ thống Đảng Quyền Tham Nhũng, vốn là cái thùng không đáy, với nhiều chiếc vòi, thi nhau hút cạn kiệt tài sản nhà nước và sức sản xuất của toàn dân. Thế rồi ngày 21-07-2008, nhà nước Việtcông lại phải nâng cao giá xăng bán trong nước lên tới mức 36%. Giá dầu hỏa từ 13.900 đồng VN 1 lít lên 20.000 đồng VN. Dù vậy, giới cầm quyền Việtcộng cũng tiên đoán sẽ còn phải bù lỗ khoảng 3 tỷ 200 triệu USD nữa.

Trong khi đó, giới đầu tư quốc tế thực sự đang làm ăn tại Việtnam đã rục rịch bỏ chạy khỏi Việtnam. Tuy số vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài cam kết đưa vào Việtnam lên tới con số 45 tỷ 300 triệu USD, tăng 373% so với cùng thời gian này năm ngoái. Nhưng đó chỉ là sự hứa hẹn. Còn thực tế thì Việtnam đang trong giai đoạn đen tối. Theo văn phòng thống kê chính phủ thừa nhận: “Chỉ nội trong tháng 7 này, giá thực phẩm tăng 44.7%, trong đó giá lương thực chủ yếu và ngũ cốc tăng 72.7%. Giá nhà và vật liệu xây dựng tăng 24.9% . Giá quần áo , giầy dép tăng 10.9%...” Nay giá xăng lại tăng lên 36% thì vật giá còn tăng theo gấp bội. Chính vì vậy mà đồng lương không đủ sống, khiến làn sóng đình công của Công Nhân Việtnam tiếp tục lan rộng, từ Nam ra Bắc. Ngư dân thiếu dầu không thể ra khơi, đành nằm nhịn đói. Giới tiểu thương đô thị lúc này là lúc họ nhận chịu những đòn trực tiếp và nặng nhất do vật giá gia tăng. Nông dân từ trước tới nay vốn là thành phần nghèo khổ nhất trong cái Xã Hội Chủ Nghĩa chết tiệt này. Đa số dân oan là nông dân, họ bị cướp nhà đất một cách trắng trợn, nay bị đẩy vào đường cùng.

Tại tỉnh Thái Bình nông dân biểu tình với biểu ngữ: “Toàn đảng, toàn dân xã Tiền Phong quyết tâm đấu tranh chống tham nhũng đòi công bằng, lẽ phải”. Sự việc này âm ỉ đã từ lâu, vì nhà cầm quyền cưỡng chiếm đất canh tác của dân làng. Tịch thu 100 hecta ruộng đất để phát triển thành khu công nghệ và cư xá. Nên mới bùng phát thành cuộc đấu tranh ôn hòa từ hơn 2 tháng nay. Nhưng đến ngày 23-07-08, công an tỉnh Thái Bình bắt ông Phạm Trung Phồn 70 tuổi, cựu chiến binh, trong lúc ông đóng chốt ở lỳ suốt 2 tháng trong trụ sở Ùy Ban Nhân Dân phường Tiền Phong, thị xã Thái Bình. Công an bắt ông và mấy người nữa, vu cho họ tội biểu tình chống chính phủ. Hàng ngàn dân làng biểu tình ngồi, bị công an tỉnh phối hợp với công an địa phương trấn áp. Cuộc xô sát giữa nông dân với công an xẩy ra. Làm cho mọi người nhớ lại cuộc nổi dậy của Nông Dân Thái Bình năm 1997, có quy mô toàn tỉnh, khiến công an, kẻ bị bắt, kẻ ù té chạy. Việtcộng phải điều động quân đội đến trấn áp. Nhờ cuộc vùng dậy của Nông Dân Thái Bình đó, mà quân đội đã thồi phòng nguồn tin cho rằng, nông dân khắp nơi cũng rục rịch nổi lên chống đảng, buộc đảng phài cử tướng Lê Khả Phiêu vào chức Tổng Bí Thư. Quân đội nắm quyền kinh tế lẫn chính trị. Nhưng rồi Lê Khả Phiêu bị hạ bệ, quân đội mất thế, công an lại lên ngôi. Nên nói tới biến động Thái Bình là công an phải lập tức ra tay.

Trước viễn cảnh đói kém càng ngày càng đến gần với toàn dân Việtnam, Việtcộng đã không có biện pháp nào đối phó hữu hiệu, mà công an lại ngu si xuống tay đàn áp dân chúng, thì việc động loạn trên toàn quốc thật khó tránh. Dù Hàinội cố bưng bít thông tin trong nước, thì các tin tức ngoài luồng cũng đã nhanh chóng phóng ra ngoại quốc, rồi từ hải ngoại thổi ngược vào trong nước. Như hôm thứ hai, khoảng 7 giờ sáng, ngày 28-07-08, bốn thanh niên Dân Chủ với 2 xe gắn máy, ngưng trên cầu vượt phía Nam của cầu Thăng Long, trước cảnh chứng kiến của đông đảo dân chúng Hànội trên đường đi làm, đã treo một tấm biểu ngữ lớn với những khẩu hiệu: “Lạm phát, giá cả tăng cao là giết dân”. “Yêu cầu đảng cộng sản thực hiện ngay Dân Chủ Hóa Đất Nước – Đa Nguyên Đa Đảng”. “Tham nhũng là hút máu nhân dân”. “Mất đất, biển, đảo là có tội với tổ tiên”. Hiện tượng ngoạn mục đầy khích lệ này được người dân thủ đô Hànội tụ tập lại xem rất đông. Mãi tới 9 giờ 15 phút công an mới gỡ xuống mang đi. Bốn chiến sĩ Dân Chủ này, trước khi đi còn vẫy chào đồng bào. Thanh niên Hànội, Dân Hànội đã hết sợ Viêtcộng rồi. Việtcộng có khôn thì mau tìm cách êm đẹp mà trốn đi.

Không biết đây có phải là cách của Nguyễn Tấn Dũng lựa chọn hay không? Cùng ngày 28-07-2008, theo đài Á Chân Tự Do thì báo Hànội Mới Online đã loan tin: “Thủ tướng Dũng đã ra 6 quyết định, trong đó có việc thuyên chuyển và trả về bộ Quốc Phòng 5 tướng lãnh Quân Đội Nhân Dân thuộc bộ chỉ huy quân khu thủ đô, gồm Chính Ủy, Phó Chính Ủy, Tư Lệnh, Phó Tư Lệnh và Tham Mưu Trưởng”. Nghĩa là toàn bộ nhóm đầu não bảo vệ thủ đô, trung tâm quyền lực của đảng và nhà nước. Đồng thời “trung tướng Phạm Xuân Hùng, nguyên giám đốc Học Viện Quốc Phòng, được bổ nhiệm giữ chức Phó Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân”. Theo giới quan sát thì ban lãnh đạo Quân Khu Thủ Đô đều lớn tuổi và có khuynh hướng thân Trungcộng, bảo thủ rất mạnh. Việc này, buộc mọi người nhớ tới khi xưa, nhân vụ một cậu trẻ từ nước ngoài lái chiếc máy bay nhỏ, đáp ngay xuống công trường đỏ của thủ đô Mạc Tư Khoa, tổng bí thư Liên Xô Grobachev liền loại bỏ các viên tướng có tránh nhiệm bảo vệ thủ đô, từ đó ông được rảnh tay thực hiên chủ trương Glasnot – Perestroika, (trong sáng - đổi mới) Việc loại bỏ toàn thể bộ chỉ huy Quân Khu Thủ Đô của Nguyễn Tấn Dũng với bất cứ lý do nào, với mục đích gì, thì đây cũng phải được coi là biến động đặc biệt. Sao không phải là chủ tịch nước, mà lại là thủ tướng làm việc đó? Liệu đây có lệnh của Bộ Chính Trị, hay là Dũng dùng quyền thủ tướng để tự động thay các viên chức dưới cấp thứ trưởng trở xuống? Liệu Dũng có được sự đồng ý của Bí Thư Quân Ủy, Nông Đức Mạnh, và trưởng ban Tổ Chức Đảng, Hồ Việt Đức để cách chức Chính Ủy, Phó Chính Ủy, Tư Lệnh, Phó Tư Lệnh, và Tham Mưu Trưởng của Bộ Chỉ Huy Quân Khu Thủ Đô hay không? Trong khi cách chức những viên tướng có lực lượng vũ trang trong tay, thì họ có ngoan ngoãn theo lệnh, hay là phài dùng tới biện pháp nào khác? Và rồi ai sẽ thay thế? Tất cả các câu hỏi vừa nêu, hiện nay mọi người đều muốn biết, nhưng chưa thể biết. Chỉ có biến chuyển trong thực tế ở những ngày tới, mới có câu trả lời. Nhưng dù sao, Việtnam cũng đang bước vào thời kỳ chuyển mình rửa hồn, lột xác là điều chắc chắn.

* Little Saigon ngay 29-07-2008.

-Lý Đại Nguyên.-

Thông tấn xã AFP trích lời phó phụ tá Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, Scot Marciel, nhân vật giữ chức Đại Sứ Hoakỳ tại khối ASEAN nói rằng: “3 năm sau khi mở lại quan hệ quân sự toàn diện với Indonesa, một thời bị trở ngại vì những quan tâm về nhân quyền, Hoakỳ khởi sự phát triển những quan hệ tương tự với Việtnam, Lào và Kampuchea”... “Tới cuối năm nay, chúng tôi cùng chính phủ Lào sẽ mở Văn Phòng Tham Tán quân sự tại thủ đô hai bên. Đây là bước tiến lớn và quan trọng.” Riêng về Việtnam và Hoakỳ đã trao đổi “Tham Tán Quân Sự” từ những năm 1990. Thoạt tiên để tìm kiếm quân nhân Mỹ mất tích. Có nghĩa chỉ là quan hệ quân sự dưới dạng nhân đạo do hậu quả cuộc chiến để lại. Mãi đến nay, tiến trình nhập nội Việtnam đã đến mức không thể đảo ngược, nên Hoakỳ mới chính thức nhận đó là Văn Phòng Tham Tán Quân Sự của Mỹ ở Việtnam, nhằm hướng tới quan hệ quốc phòng toàn diện với 3 nước Việt, Miên, Lào.

Nhưng các giới chức quân sự Mỹ bác bỏ quan niệm cho rằng: “Việc củng cố quan hệ quân sự với Việtnam, Lào và Kampuchea là để ngăn chặn ảnh hưởng đang gia tăng của Trungquốc trong vùng Đông Nam Á.” Một viên chức cao cấp của Bộ Ngoại Giao Mỹ cho biết; “Đây chỉ là một phần của việc mở rộng mối quan hệ toàn diện với vùng này.” Còn theo các chuyên viên quân sự thì: “Trungquốc đang mau lẹ củng cố sức mạnh quân sự và có thể trở thành thách đố đối với sự chế ngự truyền thống của Hoakỳ trong khu vực này.” Các chuyên gia đó đưa ra chứng cứ về việc Trungcộng thiết đặt một căn cứ tiềm thủy đĩnh nguyên tử ngầm dưới mặt đất, ở mỏm cực Nam đảo Hảinam, sát với thủy lộ huyết mạch của vùng Đông Nam Á.

Cho tới nay, Washington và Hànội chỉ mới tiến hành các chuyến viếng thăm của tầu chiến Mỹ và chương trình dậy tiếng Anh cho sĩ quan Việtnam. Mỹ muốn mở rộng thêm các hoạt động huấn luyện và đào tạo. Đặc biệt là Quốc Hội Mỹ đã chấp thuận ghi vào ngân sách một khỏan viện trợ quân sự dành cho Việtnam trong tài khóa mới, Nhất là sau chuyến làm việc của Nguyễn Tấn Dũng với bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ, Robert Gates ở Hoa Thịnh Đốn vừa qua, Dũng đã cam kết tiếp tục nâng cấp hợp tác quốc phòng với Mỹ. Điều đó hẳn Dũng phải được Bộ Chính Trị cộng đảng cho phép và trong hội nghị Trung Ương 7 tại Hànội vừa đây, chắc cũng đã tìm được sự đồng thuận của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, nên phía Bộ Ngoại Giao Mỹ mới cho công bố chủ trương hướng tới quan hệ quốc phòng toàn diện với 3 nước Việt Miên Lào.

Trong khi đó Bắc Kinh đang càng ngày càng tăng sự hiện diện kinh tế trong khu vực, nhất là tại Kampuchea và Lào. Thế nhưng theo ông Marciel thì: “Sự thực là Trung Quốc đang phát triển mạnh về kinh tế, và đóng vai trò ngày càng tích cực ở nhiều nơi trên thế giới, dĩ nhiên là ở Đông Nam Á.” “Thế nhưng không cho đây là việc được, mất (giữa Hoakỳ và Trungquốc)” Ngược lại giới chức quân sự trực tiếp có trách nhiệm về vấn đề an ninh trong vùng là Đô Đốc Timthy J. Keating, Tư Lệnh Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương lại lên tiếng báo động về sự tranh giành các tài nguyên năng lượng trong vùng Biển Đông mới đáng quan ngại. Ông nói với báo Financial Times: “Chúng tôi muốn bảo đảm rằng, các nước có thể có lợi ích trong đó, nên hiểu, vùng Biển Đông có những luật lệ thành văn và bất thành văn. Các bạn không thể chỉ ra đó đấm ngực và tuyên bố, tôi có quyền khai thác mỏ ngay tại chỗ này”

Xem vậy giới chức quân sự và ngoại giao Mỹ có quan điểm khác nhau về mối hiểm họa “Bành Trướng Trung Cộng”. Có thể vể mặt ngoại giao Mỹ đã đạt được một thỏa hiệp mật nào đó với Trungcộng, như việc Mỹ không còn sử dụng Đài Loan trong mục tiêu nuôi dưỡng chíến tranh với Trungcộng nữa, không chấp nhận cho Đài Loan được độc lập với Trung Hoa, không ngăn cản việc Trung, Đài hiệp thương hòa bình. Đổi lại như đã thấy, Trungcộng đang tích cực hợp tác với Mỹ trong việc buộc đàn em Hàncộng phải phá bỏ chương trình chế tạo bom nguyên tử. Riêng vấn đề 3 nước Đông Dương thì vẫn còn là một ẩn số. Nhưng khi Mỹ đã công khai tuyên bố thiết lập Quan Hệ Quốc Phòng Toàn Diện với 3 nước Đông Dương: Việt, Miên, Lào thì bức màn bí mật đã được hé mở.

Trước kia, Việtcộng theo Liên Xô chống Trungcộng, khi Liên Xô sụp đổ, Việtcộng liền quay lại thần phục Trungcộng. Kể từ ngày 03/09/1990, cuộc gặp giữa Phạm Văn Đồng - cố vấn, Nguyễn Văn Linh - tổng bí thư, Đỗ Mười - thủ tướng Việtcông với Đặng Tiểu Bình – lãnh tụ, Giang Trạch Dân - tổng bí thư, Lý Bằng - thủ tướng Trungcộng tại Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Hoa, thì Việtcộng đã tự trói thân về với Trungcộng và dâng luôn 2 nước đàn em là Miên, Lào vào ảnh hưởng Trungcộng. Chính vì vậy mà việc thiết lập bang giao với Hoakỳ của Việtnam phải nhận lệnh từ quan thầy Trungcộng, nên mới có nhiều trắc trở, đến việc ký Thương Ước với Mỹ, Việtcộng cũng không dám ký trước Trungcộng. Nhất là việc hợp tác Quốc Phòng với Mỹ thì Việtcộng không chủ động chỉ rón rén thăm dò, chứ không dám lộ liễu. Nay việc Mỹ công khai tuyên bố quan hệ quốc phòng với cả 3 nước Đông Dương, nếu Trungcộng theo xuôi, không có những phản ứng chống đối dữ dội như thường lệ, buộc đàn em Việtcộng, Làocộng cưỡng lại, thì việc Mỹ nhập nội toàn diện vào 3 nước Việt, Miên, Lào, nhằm củng cố an ninh cho toàn vùng Đông Nam Á là điều quá rõ.

Việc Mỹ nhập nội toàn diện vào 3 nước Đông Dương là do nhu cầu chiến lược của Mỹ, và thế chẳng đặng đừng của Trungcộng, vì nhất thời có thể Trungcộng phải đánh đổi lấy quyền lợi sinh tử ở những nơi khác. Nhưng chừng nào Trungcộng chưa thực sự dân chủ hóa, chưa từ bỏ tham vọng bành trướng thì sự an ninh của các nước trong vùng vẫn thường xuyên bị đe dọa, dù về mặt công khai, các nước trong vùng vẫn duy trì được mối đối tác kinh tế với Trungcộng. Còn nếu chỉ dựa vào chiếc dù chiến lược của Mỹ, thì biết đâu một lúc nào đấy, chiến lược đó lại không đổi chiều, rồi bị rơi vào trường hợp Nam Việtnam trước đây? Đồng ý, hợp tác trong chiến lược toàn cầu của Mỹ ở lúc này là cần thiết. Nhưng muốn tạo nổi thế đứng chủ động thì Việtnam, Lào, Kampuchea phải kịp thời Dân Chủ Hóa chế độ. Tự Do Hoá xã hội. Tư Hữu Hoá kinh tế, nhằm phục hồi Nội Lực Dân Tộc đưa Quốc Gia mình chủ động gia nhập tiến trình Toàn Cầu Hóa. Còn cứ duy trì chế độ độc tài, độc đảng, tham nhũng cộng sản để bóc lột dân, đàn áp dân, chống lai dân, không dựa vào dân, mà chỉ biết dựa vào ngoại bang, thì thân phận Việtnam, Lào, Kampucheao, Kampuchea vẫn chỉ là con cờ thí không hơn không kém.

Little Sàigon ngày 15-07-2008

-Lý Đại Nguyên -

Vào đầu thập niên 70 của Thế Kỷ 20, khi Hoakỳ trao chiếc ghế Hội Viên Thường Trực của Hội Đồng Bảo An LHQ từ tay Trung Hoa - Đài Loan sang tay Trung Cộng – Hoa Lục, mà trước đó, nước này vốn sinh hoạt ngoài tổ chức LHQ, thì nước Mỹ cũng ban hành một đạo luật cung cấp phương tiện và khí tài cho Đài Loan, để hòn đảo này có thể tự bảo vệ mình. Đồng thời sẵn sàng tiếp sức với nước này khi bị một nước khác dùng sức mạnh quân sự để tấn công, hoặc đe dọa. Như vậy là Hoakỳ vừa thiết lập hòa bình với Trungcộng, nhằm chấm dứt cuộc chiến Việtnam, vừa cài lại Á Châu một ngòi nổ chiến tranh thường trực giữa eo biển Trung, Đài, mà Hoakỳ có thể danh chính ngôn thuận, hợp pháp đem quân vào can thiệp, nếu Trungcộng phát động chiến tranh thôn tính Đài Loan.

Cũng từ đó, Trungcộng chính thức thoát ra khỏi chiếc bóng của Liên Xô trên chính trường thế giới. Có cơ hội mở rộng bang giao, tiếp nhận đầu tư quốc tế, đổi mới kinh tế để trở thành một nhà nước độc đảng, độc tài cộng sản, lấy chủ nghĩa dân tộc đế quốc Đại Hán làm mục đích, lấy công ty quốc doanh làm chủ đạo cho kinh tế thị trường, biến cộng đảng thành một công ty tư bản man rợ cực quyền. Tuy thế đời sống người dân vùng kỹ nghệ đã được cởi mở, Nhưng lại đã phân hóa xã hội Trung Hoa giữa thành thị và nông thôn ra 2 thế giới giầu nghèo quá chênh lệch. Thời đó Quốc Dân Đảng di tản từ lục địa ra nắm quyền tại Đài Loan thường xuyên nêu cao danh nghĩa sẵn sàng “Quang Phục Trung Hoa”. Tuy là một xứ nhỏ, nhưng nhờ cuộc chiến Việtnam, với chương trình viện trợ đối giá của Mỹ, dùng hàng hóa Đài Loan, Nhật Bản cung cấp cho thị trường Việtnam, bởi thế khối lượng Mỹ Kim khổng lồ viện trợ cho chiến tranh Việtnam không vào tay người Việt, mà lại ào ào đổ vào tay người Nhật, người Đài, khiến cho nền kinh tế của họ mới mau cất cánh thành những con Rồng Châu Á.

Kinh tế Đài Loan càng phát triển mạnh, thì họ càng phải mua đủ loại vũ khí tối tân của Mỹ để phòng thủ. Đây được xem như gian hàng triển lãm các đợt vũ khí mới, mà Mỹ muốn giới thiệu với thế giới, không cần tới cuộc chiến như ở Đệ Nhị Thế Chiến, chiến Tranh Triều Tiên, chiến tranh Việtnam, chiến tranh Vùng Vịnh. Trungcộng không thể để thua kém, nên một phần lớn lợi nhuận thu được nhờ kinh tế thị trường nửa vời, họ cũng đổ vào việc hiện đại hoá quân đội, trang bị vũ khí, chế tạo cả ngàn hỏa tiễn hướng vào đe dọa Đài Loan, và cố vuơn lực lượng hải quân ra đại dương, khiến cho cả thế giới lo ngại. Nhật, Ấn, Úc trở thành đồng minh chiến luợc của Mỹ. Các nước chung quanh Trungcộng buộc phải đề cao âm mưu bành trướng Bắc Kinh. Nhất là 8 năm Đài Loan nằm dưới quyền lãnh đạo của tổng thống Trần Thụy Biển thuộc đảng Dân Tiến của những người gốc thổ dân Đài Loan, họ luôn luôn đòi Đài Loan được độc lập, nên bất cứ lúc nào chiến tranh Trung – Đài cũng có thế bùng nổ. Trong khi đó ngày 22/05/08, sau khi vừa đắc cử tổng thống Nga, Dmitry Medvedev liền sang Bắc Kinh gặp Hồ Cẩm Đào lãnh tụ Trungcộng ký một thông cáo chung lên án kế hoạch“Lá Chắn Hỏa Tiễn Phòng Thủ” của Mỹ ở Âu Châu, khiến cho tình thế thêm căng thẳng.

Nhưng sau cuộc tổng tuyễn cử tháng 03/2008 của Đài Loan, ông Mã Anh Cửu thuộc Quốc Dân Đảng được bầu vào chức Tổng Thống Đài Loan, và chính thức nhận chức ngày 20/05/08, thì tình thế đã lật ngược. Không còn chủ trương quang phục như cha anh, không đòi độc lập như đảng Dân Tiến, mà giữ nguyên trạng để 2 bờ eo biển tương tác, hợp tác cùng phát triển. Trước đó một cuộc gặp mặt lịch sử ngắn ngủi giữa Hồ Cẩm Đào với phó tổng thống Tiêu Vạn Tường, mới đắc cử của Đài Loan, bên lề cuộc hội thảo doanh nghiệp khu vực trên đảo Hải Nam vào ngày 12/04/08 đã mở ra một thời kỳ mới cho quan hệ giữa Trung – Đài. Dịp này phó ngoại trưởng Mỹ, John Negroponte cho rằng cuộc gặp giữa 2 ông Hồ-Tiêu là bước tiến tốt. Ngày 13/06/08, các nhà thương thuyết Trungcộng và Đàiloan đã đặt bút ký một thỏa thuận thực hiện các chuyến bay trực tiếp giữa 2 miền địch thủ lâu dài. Bắt đầu từ ngày 04/07/08. Trần Vân Lâm đại diện Trungcộng vả Giang Bỉnh Khôn đại điện Đài Loan cùng nâng ly sâm banh để ăn mừng. Báo Washington Post đưa tin: “Kế hoạch của Hoakỳ nhằm bán cho Đàiloan nhiều tỉ đô la vũ khí đã bị đình trệ.”

Thế là ngòi nổ chiến tranh Trung, Đài, ở đó có tính hợp pháp với Mỹ, buộc Mỹ phải đem quân can thiệp ở Châu Á khi binh biến, đã bị người Trung Hoa ở 2 bên eo biển chủ động tháo gỡ. Trong khi đó Trungcông thực hiện chủ trương hòa giải với 2 nước Đông Bắc Á là Nam Hàn và Nhật Bản. Nhật, Trung ngày 16/06/08 đã đạt được một thỏa thuận và đồng ý khai thác các mỏ khí đốt và chia lợi nhuận trong khu vục đang trong vòng tranh chấp tại biển Đông Trunghoa. Trong khi đó thì Trungcộng thiết lập một quân cảng nguyên tử khổng lồ tại cực Nam đảo Hải Nam, có sức chứa tới hàng chục tầu ngầm nguyên tử, để khống chế toàn vùng Đông Nam Á. Khiến Tư Lệnh Thái Bình Dương, Đô Đốc Timthy J. Keating phải lên tiếng báo động, sự tranh giành các tài sản năng lượng trong vùng biển Đông là mới quan ngại. Ông nói với báo Financial Times: “Chúng tôi muốn bảo đảm rằng các nước có thể có lợi ích trong đó, nên hiểu, vùng biển Đông có những luật lệ thành văn và bất thành văn. Các bạn không thễ chỉ ra đó, đấm ngực và tuyên bố, tôi có quyền khai thác mỏ ngay tại chỗ này”. Trong cuộc họp Thượng Đỉnh An Ninh Á Châu mới đây, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ, Robert Gates cũng chứng tỏ, nước Mỹ không quay lưng lại với an ninh trong vùng.

Trong khuynh hướng Trungcộng bành trướng sức mạnh quân sự về vùng Đông Nam Á, thì Việtnam là nước trực tiếp bị đe dọa, vì thềm lục địa Việtnam có một trữ lượng dầu hỏa rất lớn, mà Trungcộng đang khống chế Việtcộng quá chặt, nên các công ty thăm dò Mỹ và Tây Phương chưa thấy có sự đảm bảo an ninh bền vững, họ chưa vội đưa dầu ra khỏi mỏ. Chừng nào Hoakỳ chưa bảo đảm được an ninh cho các công ty khai thác, thì Việtnam chưa thể là một Quốc Gia Dầu Hỏa trong vùng. Cuộc Mỹ du của Nguyễn Tấn Dũng hiện nay, có đến gặp các ông vua dầu lửa của Mỹ, và các nhà đầu tư Mỹ thì đó cũng chỉ là xã giao. Họ có chịu lập tức đổ vốn vào cứu nguy cho nền kinh tế Việtnam hay không? Còn tùy ở chính phủ Mỹ có bảo đảm được an ninh trước sức ép về quân sự, chính trị của chủ trương “tàm thực” kiểu Trungcộng hay không?. Phải thành thât, can đảm mà nhận rằng: Trong hoàn cảnh Việtnam hiện nay, chỉ có sức mạnh toàn dân, cùng với sự hỗ trợ trực tiếp về an ninh của Mỹ và Thế Giới Dân Chủ, mới hy vọng chận được sức bành trướng của Trungcộng tại Việtnam mà thôi.

* Little Saigon ngày 24-06-2008.

Lý Đại Nguyên

Trước thảm cảnh thiên tai vừa mới xẩy ra ở Miến Điện, hầu như khắp các nước trên thế giới đều thực tâm muốn giúp cho nạn nhân ở đó, mau chóng vượt qua giai đoạn cực kỳ nguy hiểm: Cứu sinh mạng, cứu đói khổ, trị dịch bệnh, lập nơi tạm trú… Nhưng nhà cầm quyền quân phiệt, độc tài, tham nhũng của Miến Điện đã tàn nhẫn khước từ, chỉ nhận đồ cứu trợ, mà không cho các chuyên gia, thiện nguyện viên ngoại quốc vào giúp đỡ, khiến cho những người không đáng chết, phải chết oan. Ở đây thấy rõ một điều là chế độ độc tài không bao giờ biết thương dân, lo cho dân, mà chỉ sợ mất quyền hành. Tệ nhất là chúng coi thiên tai là cơ hội để chúng ăn chặn đồ cứu trợ của những nhà hảo tâm, và viện trợ của quốc tế. Liền sau đó là vụ động đất lớn tại Trung Hoa, tuy nhà cầm quyền Trungcộng vốn độc tài, nhưng đã mở cửa giao tiếp với thế giới bên ngoài, nên đã dễ dàng đón nhận sự trợ giúp từ nước ngoài. Như vậy, cho thấy, thiên tai xẩy ra bất cứ nơi nào trên địa cầu thì cũng là mối lo chung của nhân loại, các nước đều có nghĩa vụ thiêng liêng phải giải quyết. Chỉ có những chế độ độc tài cực đoan, tự cô lập mới để mặc cho dân chết, không nhận sự trợ giúp và không chịu giúp các nước khác khi bị thiên tai.

Do đó, vấn đề Dân Chủ Hóa chể độ ở mỗi quốc gia hiện nay là mối quan tâm hàng đầu của cả thế giới. Khi đặt vấn đề Dân Chủ Hóa Chế Độ, là đặt bổn phận trách nhiệm cho Nhà Đương Quyền phải thay đổi luật lệ từ độc tài chuyên chế đảng trị, hay độc tài cá nhân trị, gia tộc trị sang các luật lệ tự do dân chủ, để cho người dân có thực quyền: Tự Do Tư Hữu, cả về hai mặt tinh thần và tài sản. Tự Do Ngôn Luận, Tự Do Lập Hội và Tự Do Lựa Chọn. Từ đó tạo ra một Xã Hội Đa Nguyên Tự Do, một nền Kinh Tế Thị Trường Tự Do, một thể chế Chính Trị Dân Chủ Tự Do, được Điều Hợp theo Hiến Pháp Dân Chủ, với một hệ thống luật pháp minh bạch trong sáng tôn trọng Nhân Quyền, và được Điều Hành bởi những người do toàn dân lựa chọn. Việc đó, vừa mới được một vương quốc Bhutan nhỏ bé, nằm sâu trong dẫy Hy Mã Lạp Sơn thực hiện hết sức ngoạn mục. Quốc vương Jigme Singye Wangchuk, trước khi truyền ngôi cho con là vua Jigme Khesar Namgyal Vangchuk, Ngài đã trao hầu hết quyền hành pháp cho một Nội Các, và cho Quốc Hội được quyền đàn hạch Nhà Vua. Từ đó nước Bhutan bước vào sinh hoạt chính trị tự do đa đảng và phát triển kinh tế dựa trên phúc lợi của dân – Gross National Happiness - là chủ trương đổi mới của Thái Thượng Hoàng, và có sự đóng góp của ông Jigmi Thinley. Rồi với một cuộc bầu cử Dân Chủ trong sạch, đảng đối lập của ông Jigmi Thinley đại thắng. Quốc vương vẫn là Tổng Tư Lệnh quân đội và được chỉ định 5 vị trong Thượng Viện. Bhutan từ một nước Phong Kiến lạc hậu buớc vào chế độ Dân Chủ trong sáng là nhờ công của những nhà Lãnh Đạo biết nhìn xa trông rộng, luôn luôn đặt quyền lợi của dân lên trên quyền vị cá nhân mình, nên được người dân muôn đời kính trọng, biết ơn, thế giới ngưỡng mộ, mà uy quyền hiện nay vẫn không mất.

Nhìn về Việtnam, thấy mà buồn, nhà cầm quyền Việtcộng hiện nay, thà mất dân, mất nước, mất chủ quyền vào tay ngoại bang, chứ không chịu sớm Dân Chủ Hóa chế độ, để trao quyền lại cho toàn dân, để dân làm chủ nước, nước có chủ quyền thực sự, để chủ động gia nhập tiến trình toàn cầu hóa với sự tôn trọng của cả thế giới. Thực sự thì cái gọi là chủ nghĩa cộng sản, hay xã hội chủ nghĩa, nó đã bị biến thái thành thứ “Tư Bản Man Rợ,” ngay từ khi Việtcộng buộc phải mở cửa chạy theo Kinh Tế Thị Trường, nhận vốn đầu tư và làm ăn với ngọai quốc. Nó man rợ, vì đảng vừa độc quyền chính trị tham nhũng, vừa tạo ra các công ty quốc doanh, dùng vốn của quốc dân, độc quyền làm kinh tế, thu lợi vào tay đảng, chia lợi nhuận cho nhau theo ngôi thứ quyền lực, biến các lãnh tụ đảng thành các tay tài phiệt khổng lồ. Rồi hợp thức hóa những tài sản đen tối đó dưới chiêu bài cho đảng viên là kinh tế Tư Doanh. Nghĩa là đảng mặc nhiên công nhận quyền Tư Hữu của đảng viên, nhưng toàn dân vẫn bị nằm trong Cơ Chế Công Hữu do nhà nước quản lý. Do đó, kẻ có quyền thế mới tha hồ nhân danh luật lệ công hữu để chiếm đoạt đất đai, tài sản của dân làm của riêng. Cảnh Dân Oan khiếu kiện tràn ngập khắp nơi, mà không có lối giải quyết là vì thế.

Khi đảng đã cho đảng viên làm kinh tế tư doanh, thì sớm muộn gì nhà nước Việtcộng cũng phải ban hành đạo luật công nhận quyền Tư Hữu của mỗi công dân, thế mới hợp pháp hóa được tài sản tư hữu bẩn thỉu của đảng viên. Đây cũng là cái gốc của nền Kinh Tế Thị Trường thực sự, chứ không thể lấp liếm trong khẩu hiệu “Kinh Tế Thị Trường theo Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa” được mãi, khi đảng viên đã từ bỏ chủ nghĩa xả hội chết tiệt rồi. Như vậy, vì quyền lợi thiết thân của Việtcộng, vì nhu cầu của thị trường, vì đòi hỏi của quốc tế, nền Kinh Tế Thị Trường Tự Do cũng đã và đang thành hình tại Việtnam không thể cưỡng lại. Mà Kinh Tế Thị Trường Tự Do tất nhiên sẽ kéo theo Xã Hội Đa Nguyên Tự Do. Bởi vậy Việtcộng mới tìm mọi cách tránh né, không chịu cho ra đời những đạo luật công nhận sự hình thành và sinh họat tự do của các Tổ Chức Xã Hội Dân Sự. Mặc dầu chúng đã ký vào các Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị 1966. Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa 1966. Ngay trong lời mở đầu của 2 công ước căn bản này đã ghi: “Xét rằng, nghĩa vụ của quốc gia hội viên theo Hiến Chương Liên Hiệp Quốc là phát huy sự tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và quyền tự do của con người.”

Ấy thế mà Việtcộng đã nhân danh Việtnam để gia nhập LHQ, ký vào các Công Ước Quốc Tế, làm thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An, và triển vọng trở thành Chủ Tịch Đại Hội Đồng LHQ, mà vẫn không tôn trọng Nhân Quyền của dân mình. Vẫn không ban hành các đạo luật thành lập và sinh hoạt cho các tổ chức Xã Hội Dân Sự, mà lại cho ra đời những luật lệ phản động như “Pháp Lệnh Tín Ngưỡng Tôn Giáo” bắt các Tôn Giáo muốn được sinh hoạt công khai phải đặt dưới sự quản trị của Mặt Trận Tổ Quốc, một tổ chức ngoại vi của đảng Việtcộng. Theo nhận định của Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ thì chính quyền Việtnam “đã đặt ra những luật lệ, nhằm giới hạn hoạt động của các tôn giáo.” Tất cả các cơ quan Truyền Thông Báo Chí đều là của đảng. Do đảng viên trực tiếp điều hành. Chính vì vậy mà bọn tham nhũng có quyền thể tha hồ lộng hành. Một thể chế Dân Chủ thực sự không thể thiếu được một nền Truyền Thông Báo Chí Tư Nhân Tự Do. Đối với thực trạng Việtnam hiện nay thì Lộ Đồ Dân Chủ Hóa phải bắt đầu bằng việc hủy bỏ những đạo luật khống chế Tôn Giáo, độc quyền Truyền Thông. Ban hành các luật lệ Tự Do Tư Hữu về tư tưởng và tài sản của mỗi công dân. Ban hành các luật lệ về quyền tự do dân sự và chính trị, để cho các tập thể Xã Hội Dân Sự, các Chính Đảng công khai sinh hoạt, thúc đẩy tiến trình Dân Chủ Hoá Chế Độ, đi từ thay đổi Hiến Pháp độc tài sang dân chủ, và các luật lệ từ khống chế, khủng bố sang bảo vệ nhân quyền, để người dân thực hiện quyền tự do phát biểu ý kiến và tự do lựa chọn những đại biểu của mình trong các cơ quan Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp của Quốc Gia, và các chính quyền địa phương, nhất là cần thực hiện một nền Dân Chủ Trực Tiếp tại Làng Xã vốn là cơ sở hành chánh gốc của Truyền Thống Dân Chủ Dân Tộc.

Little Saigon ngày 20-05-2008.

Lý Đại Nguyên

Nhằm lấp liếm đi những hành vi đàn áp tôn giáo, tiêu diệt đối lập, vi phạm nhân quyền, Việtcộng đã đăng cai tổ chức Đại Lễ Vesak 2008 của LHQ. Nhưng không sao che mắt được Thế Giới. Trước khi Đại Lễ Phật Đản khai diễn từ ngày 13 đến 17/05/2008, thì Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế của Hoa Kỳ ngày 03/05/08, đã kiến nghị Bộ Ngoại Giao Mỹ, nên ghi tên Việtnam trở lại danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt - CPC - Theo Ủy Ban này: “Hànội đã không giữ các cam kết về tôn trọng quyền tự do tôn giáo. Còn hệ thống luật pháp, bộ máy tư pháp của Việtnam thiếu minh bạch và độc lập.” Ngày 09/05/08, tổ chức Human Rights Watch, phê phán Việtnam vẫn giam giữ Phật Tử trong lúc chuẩn bị tổ chức Đại lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc. Theo họ ở Việtnam hiện nay vẩn có “hơn 400 người bị giam vì các hoạt độn tôn giáo và chính trị một cách hòa bình.” Ngày 10/05/08, 51 nhân vật quốc tế, như Giải Nobel Hòa Bình, Giám Mục Thiên Chúa Giáo, Giáo Sĩ Do Thái Giáo, Tu Sĩ Phật Giáo, Tin Lành, Dân Biểu, Nghị Sĩ Hoa Kỳ, Châu Âu, cùng những nhà lãnh đạo các tổ chức nhân đạo quốc tế đã gửi thư đến nhà cầm quyền Hànội, đòi chấm dứt mọi sự đàn áp nhắm vào Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Trong thư viết: “Nhân dịp Đại Lễ Phật Đản LHQ, chúng tôi kêu gọi quý ông hãy chấm dứt mọi đàn áp đối với GHPGVNTN, trả tự do cho Đức Tăng Thống Thích Huyền Quang, Đại lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, và phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN. Bằng động thái đó, quý ông sẽ tái lập ý nghĩa đích thực cho Ngày Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc, và tôn vinh 2000 năm truyền đăng nền Phật Giáo Việt Nam.”

Tuy Đại Lễ Vesak 2008 của LHQ được nhà cầm quyền Việtcộng đứng ra tổ chức trình diễn linh đình tại Hànội, làm nức lòng những Phật Tử, và dân chúng Miền Bắc, vì từ ngày cộng sản nắm quyền đến nay, họ chỉ có phá chùa, bắt sư, tẩy não Phật Tử chứ không bao giờ cho phép tổ chức lễ Phật. Nay đảng và nhà nước Việtcông bỗng “phát tâm” mừng lễ Phật Đản, nên dân chúng đã hân hoan kéo nhau về tham dự, nhưng chỉ được đứng ngoài hội trường, không thể hòa mình trong buổi lễ. Còn ở các điạ phương Miền Nam thì cho tổ chức rất giới hạn và được kiểm soát nghiêm ngặt, nhất là những nơi có Ban Đại Diện GHPGVNTN. Đặc biệt là tại Thanh Minh Thiền Viện, Sàigòn, nơi ở của Ngài Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, thì “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Công bằng mà nói: “Nếu không có cuộc trường kỳ vận động cho Tự Do Tôn Giáo và đòi phục hoạt Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất dân lập, do 2 Ngài Huyền Quang, Quảng Độ lãnh đạo Tăng, Ni, Phật Tử trong, ngoài nước, cùng đứng lên tranh đòi và được dư luận toàn thế giới hậu thuẫn, thì Việtcộng đâu có cần phải tổ chức Đại Lễ Vesak. Khi một chế độ vô thần đã phải bỏ công của ra để làm một lễ hội tôn giáo, có tính quốc gia của quốc tế, nhằm tôn vinh đấng Giáo Chủ của một tôn giáo, thì dù với bất cứ thứ lý do nào, hoặc bất cứ âm mưu đen tối cách mấy, thì trên thực tế, họ đã phải đầu hàng trước sức mạnh tinh thần tôn giáo rồi.”

Sau khi lễ Phật Đản LHQ kết thúc, thì một cuộc đối thoại song phương Việt - Mỹ về vấn đề nhân quyền khai diễn vào ngày 29/05/08. Đây là một cuộc đối thoại mà phái đoàn của Mỹ đã có những cuộc thảo luận, lắng nghe những ý kiến của phía Người Việt Tỵ Nạn tại Hoa Kỳ. Tất nhiên, nhu cầu nhập nội Việtnam của Mỹ là ưu tiên hàng đầu, nên Mỹ đã phải “mắt nhắm, mắt mở” rút tên Việtnam ra khỏi danh sách CPC. Nhưng nay, không vì vậy, mà Việtcộng có thể lẩn tránh mãi được vấn đề Tự Do Tôn Giáo, vì chính giới và dư luận Mỹ rất quan tâm về vấn đề nhậy cảm này. Về phía Tòa Thánh Vatican cũng đã phổ biến tin tức là sẽ có một phái đoàn Vatican viếng thăm Việtnam vào tháng 6/08. Theo tin này, vấn đề tài sản của Giáo Hội Công Giáo, như Tòa Khâm Sứ, Thánh Địa La Vang, Giáo Hoàng Học Viện sẽ được đặt ra. Từ ngày 18/12/2007 tới nay, phong trào đòi Việtcộng trả lại tài sản của Giáo Hội Công Giáo Việtnam vẫn tiếp tục nổ ra. Măc dầu có sự can thiệp của Hồng Y Tarcisio Bertone, Bộ Trưởng Ngoại Giao của Tòa Thánh, nên các vụ tập họp của Giáo Dân trước tòa Khâm Sứ Hànội mới chấm dứt, nhưng cho tới nay chính phủ vẫn chưa có một hành động nào để thực hiện lời hứa sẽ trao trả tài sản này lại cho Giáo Hội. Trái lại nhiều vụ phản kháng tương tự về tài sản trước đây thuộc quyền sở hữu của Giáo Hội cũng lại xẩy ra tại các giáo phận khác như ở Hànội, Hà Đông, Sàigòn và Vĩnh Long.

Khi tòa thánh Vatican chưa thiết lập bang giao toàn diện với Việtnam, thì Việtcộng chưa có lý do chính đáng để trao tòa Khâm Sứ cho Tòa Thánh, còn việc bảo trả lại tòa Khâm Sứ cho Địa Phận Hànội, thì tất cả các đất đai của Giáo Hội Thiên Chúa ở Việtnam đều phải trả lại hết, làm vậy Việtcộng đâu chịu thấu. Mà không trả thì giáo dân có lý do chính đáng để đấu tranh hoài. Trói được Hội Đồng Giám Mục và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam trong Pháp Lệnh Tín Ngưỡng Tôn Giáo, đặt dưới quyền điều khiển của Mặt Trận Tổ Quốc, làm công cụ cho Cộng Đảng, tưởng như thế là đã yên, khỏi lo về việc đấu tranh đòi tự do của một tôn giáo có tổ chức quy mô, có tầm vóc quốc tế. Nhưng nay, vì vấn đề tài sản, mà tạo thành các cuộc biểu tình đòi công lý, thì đâu cũng vào đấy. Còn nếu tòa thánh Vatican vội thiết lập bang giao với Việtnam, trong lúc Việtcộng còn duy trì thứ Pháp Lệnh Tín Ngưỡng Tôn Giáo quái đản trên, thì Vatican đã trao con cái mình cho quỷ sứ rồi vậy. Một tôn gíáo có chiều dầy gần Hai Ngàn Năm trên hoàn vũ, đâu có vội làm như thế.

Đã đến lúc Hànội phải giải quyết dứt điểm về vấn Tự Do Tôn Giáo ở Việtnam, bằng cách hủy bỏ Pháp Lệnh Tín Ngưỡng Tôn Giáo do Thường Vụ Quốc Hội tạo ra, thay vào đó bằng những bản Hiến Chương do chính mỗi Giáo Hội đệ trình trước Quốc Hội, được Dân Biểu thảo luận công khai và biểu quyết thành Luật, để Giáo Hội đó có trách nhiệm thực thi, để cho Chính Quyền có tránh nhiệm bảo vệ, và Tòa Án có trách nhiệm giải thích khi bị vi phạm. Lẽ đương nhiên Quốc Hội sẽ không chấp thuận những bản Hiến Chương có tính cách Tà Quái, Phi Luân, Bạo Hành… Có như vậy mới giải quyết được vấn đề Tự Do Tôn Giáo một cách êm đềm, mới huy động được sức mạnh tâm linh của các tín đồ mọi tôn giáo vào việc chấn hưng đạo đức, lành mạnh hóa xã hội, và mới huy động được nội lực dân tộc vào công cuộc dựng nước, giữ nước, trong tiến trình toàn cầu hóa, mà các thế lực quốc tế đen tối vẫn còn đầy rẫy.

Little Saigon ngày 27-05-2008.

Lý Đại Nguyên

Trước thảm cảnh thiên tai vừa mới xẩy ra ở Miến Điện, hầu như khắp các nước trên thế giới đều thực tâm muốn giúp cho nạn nhân ở đó, mau chóng vượt qua giai đoạn cực kỳ nguy hiểm: Cứu sinh mạng, cứu đói khổ, trị dịch bệnh, lập nơi tạm trú… Nhưng nhà cầm quyền quân phiệt, độc tài, tham nhũng của Miến Điện đã tàn nhẫn khước từ, chỉ nhận đồ cứu trợ, mà không cho các chuyên gia, thiện nguyện viên ngoại quốc vào giúp đỡ, khiến cho những người không đáng chết, phải chết oan. Ở đây thấy rõ một điều là chế độ độc tài không bao giờ biết thương dân, lo cho dân, mà chỉ sợ mất quyền hành. Tệ nhất là chúng coi thiên tai là cơ hội để chúng ăn chặn đồ cứu trợ của những nhà hảo tâm, và viện trợ của quốc tế. Liền sau đó là vụ động đất lớn tại Trung Hoa, tuy nhà cầm quyền Trungcộng vốn độc tài, nhưng đã mở cửa giao tiếp với thế giới bên ngoài, nên đã dễ dàng đón nhận sự trợ giúp từ nước ngoài. Như vậy, cho thấy, thiên tai xẩy ra bất cứ nơi nào trên địa cầu thì cũng là mối lo chung của nhân loại, các nước đều có nghĩa vụ thiêng liêng phải giải quyết. Chỉ có những chế độ độc tài cực đoan, tự cô lập mới để mặc cho dân chết, không nhận sự trợ giúp và không chịu giúp các nước khác khi bị thiên tai.

Do đó, vấn đề Dân Chủ Hóa chể độ ở mỗi quốc gia hiện nay là mối quan tâm hàng đầu của cả thế giới. Khi đặt vấn đề Dân Chủ Hóa Chế Độ, là đặt bổn phận trách nhiệm cho Nhà Đương Quyền phải thay đổi luật lệ từ độc tài chuyên chế đảng trị, hay độc tài cá nhân trị, gia tộc trị sang các luật lệ tự do dân chủ, để cho người dân có thực quyền: Tự Do Tư Hữu, cả về hai mặt tinh thần và tài sản. Tự Do Ngôn Luận, Tự Do Lập Hội và Tự Do Lựa Chọn. Từ đó tạo ra một Xã Hội Đa Nguyên Tự Do, một nền Kinh Tế Thị Trường Tự Do, một thể chế Chính Trị Dân Chủ Tự Do, được Điều Hợp theo Hiến Pháp Dân Chủ, với một hệ thống luật pháp minh bạch trong sáng tôn trọng Nhân Quyền, và được Điều Hành bởi những người do toàn dân lựa chọn. Việc đó, vừa mới được một vương quốc Bhutan nhỏ bé, nằm sâu trong dẫy Hy Mã Lạp Sơn thực hiện hết sức ngoạn mục. Quốc vương Jigme Singye Wangchuk, trước khi truyền ngôi cho con là vua Jigme Khesar Namgyal Vangchuk, Ngài đã trao hầu hết quyền hành pháp cho một Nội Các, và cho Quốc Hội được quyền đàn hạch Nhà Vua. Từ đó nước Bhutan bước vào sinh hoạt chính trị tự do đa đảng và phát triển kinh tế dựa trên phúc lợi của dân – Gross National Happiness - là chủ trương đổi mới của Thái Thượng Hoàng, và có sự đóng góp của ông Jigmi Thinley. Rồi với một cuộc bầu cử Dân Chủ trong sạch, đảng đối lập của ông Jigmi Thinley đại thắng. Quốc vương vẫn là Tổng Tư Lệnh quân đội và được chỉ định 5 vị trong Thượng Viện. Bhutan từ một nước Phong Kiến lạc hậu buớc vào chế độ Dân Chủ trong sáng là nhờ công của những nhà Lãnh Đạo biết nhìn xa trông rộng, luôn luôn đặt quyền lợi của dân lên trên quyền vị cá nhân mình, nên được người dân muôn đời kính trọng, biết ơn, thế giới ngưỡng mộ, mà uy quyền hiện nay vẫn không mất.

Nhìn về Việtnam, thấy mà buồn, nhà cầm quyền Việtcộng hiện nay, thà mất dân, mất nước, mất chủ quyền vào tay ngoại bang, chứ không chịu sớm Dân Chủ Hóa chế độ, để trao quyền lại cho toàn dân, để dân làm chủ nước, nước có chủ quyền thực sự, để chủ động gia nhập tiến trình toàn cầu hóa với sự tôn trọng của cả thế giới. Thực sự thì cái gọi là chủ nghĩa cộng sản, hay xã hội chủ nghĩa, nó đã bị biến thái thành thứ “Tư Bản Man Rợ,” ngay từ khi Việtcộng buộc phải mở cửa chạy theo Kinh Tế Thị Trường, nhận vốn đầu tư và làm ăn với ngọai quốc. Nó man rợ, vì đảng vừa độc quyền chính trị tham nhũng, vừa tạo ra các công ty quốc doanh, dùng vốn của quốc dân, độc quyền làm kinh tế, thu lợi vào tay đảng, chia lợi nhuận cho nhau theo ngôi thứ quyền lực, biến các lãnh tụ đảng thành các tay tài phiệt khổng lồ. Rồi hợp thức hóa những tài sản đen tối đó dưới chiêu bài cho đảng viên là kinh tế Tư Doanh. Nghĩa là đảng mặc nhiên công nhận quyền Tư Hữu của đảng viên, nhưng toàn dân vẫn bị nằm trong Cơ Chế Công Hữu do nhà nước quản lý. Do đó, kẻ có quyền thế mới tha hồ nhân danh luật lệ công hữu để chiếm đoạt đất đai, tài sản của dân làm của riêng. Cảnh Dân Oan khiếu kiện tràn ngập khắp nơi, mà không có lối giải quyết là vì thế.

Khi đảng đã cho đảng viên làm kinh tế tư doanh, thì sớm muộn gì nhà nước Việtcộng cũng phải ban hành đạo luật công nhận quyền Tư Hữu của mỗi công dân, thế mới hợp pháp hóa được tài sản tư hữu bẩn thỉu của đảng viên. Đây cũng là cái gốc của nền Kinh Tế Thị Trường thực sự, chứ không thể lấp liếm trong khẩu hiệu “Kinh Tế Thị Trường theo Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa” được mãi, khi đảng viên đã từ bỏ chủ nghĩa xả hội chết tiệt rồi. Như vậy, vì quyền lợi thiết thân của Việtcộng, vì nhu cầu của thị trường, vì đòi hỏi của quốc tế, nền Kinh Tế Thị Trường Tự Do cũng đã và đang thành hình tại Việtnam không thể cưỡng lại. Mà Kinh Tế Thị Trường Tự Do tất nhiên sẽ kéo theo Xã Hội Đa Nguyên Tự Do. Bởi vậy Việtcộng mới tìm mọi cách tránh né, không chịu cho ra đời những đạo luật công nhận sự hình thành và sinh họat tự do của các Tổ Chức Xã Hội Dân Sự. Mặc dầu chúng đã ký vào các Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị 1966. Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa 1966. Ngay trong lời mở đầu của 2 công ước căn bản này đã ghi: “Xét rằng, nghĩa vụ của quốc gia hội viên theo Hiến Chương Liên Hiệp Quốc là phát huy sự tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và quyền tự do của con người.”

Ấy thế mà Việtcộng đã nhân danh Việtnam để gia nhập LHQ, ký vào các Công Ước Quốc Tế, làm thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An, và triển vọng trở thành Chủ Tịch Đại Hội Đồng LHQ, mà vẫn không tôn trọng Nhân Quyền của dân mình. Vẫn không ban hành các đạo luật thành lập và sinh hoạt cho các tổ chức Xã Hội Dân Sự, mà lại cho ra đời những luật lệ phản động như “Pháp Lệnh Tín Ngưỡng Tôn Giáo” bắt các Tôn Giáo muốn được sinh hoạt công khai phải đặt dưới sự quản trị của Mặt Trận Tổ Quốc, một tổ chức ngoại vi của đảng Việtcộng. Theo nhận định của Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ thì chính quyền Việtnam “đã đặt ra những luật lệ, nhằm giới hạn hoạt động của các tôn giáo.” Tất cả các cơ quan Truyền Thông Báo Chí đều là của đảng. Do đảng viên trực tiếp điều hành. Chính vì vậy mà bọn tham nhũng có quyền thể tha hồ lộng hành. Một thể chế Dân Chủ thực sự không thể thiếu được một nền Truyền Thông Báo Chí Tư Nhân Tự Do. Đối với thực trạng Việtnam hiện nay thì Lộ Đồ Dân Chủ Hóa phải bắt đầu bằng việc hủy bỏ những đạo luật khống chế Tôn Giáo, độc quyền Truyền Thông. Ban hành các luật lệ Tự Do Tư Hữu về tư tưởng và tài sản của mỗi công dân. Ban hành các luật lệ về quyền tự do dân sự và chính trị, để cho các tập thể Xã Hội Dân Sự, các Chính Đảng công khai sinh hoạt, thúc đẩy tiến trình Dân Chủ Hoá Chế Độ, đi từ thay đổi Hiến Pháp độc tài sang dân chủ, và các luật lệ từ khống chế, khủng bố sang bảo vệ nhân quyền, để người dân thực hiện quyền tự do phát biểu ý kiến và tự do lựa chọn những đại biểu của mình trong các cơ quan Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp của Quốc Gia, và các chính quyền địa phương, nhất là cần thực hiện một nền Dân Chủ Trực Tiếp tại Làng Xã vốn là cơ sở hành chánh gốc của Truyền Thống Dân Chủ Dân Tộc.

Little Saigon ngày 20-05-2008.

Nếu không có nhận thức TỰ TRỌNG NHÂN PHẨM của mình - TỰ DO DÂN CHỦ của mình - thì cái gọi là "lòng yêu nước, tính dân tộc" chỉ là cảm tính nông nổi và bầy đàn, nếu chưa nói là gian man

Thư Mục