Lý Đại Nguyên

Tại Hànội, ngày 19/10/07, phóng viên Roger Mitton đã viết một bài bằng Anh ngữ đăng trên tờ báo điện tử The Straits Times - Thời Báo Eo Biển của Singapore – www.straitstimes.com với tựa đề: Đảng Cộng Sản Việt Nam tự đặt lại nhãn hiệu danh xưng? “Tên gọi “cộng sản” bây giờ bị xem như lỗi thời và tổn hại cho hình ảnh của đất nước”. Nếu nhóm cầm đầu Việtcộng ở Hànội mà biết nghĩ tới sự lỗi thời và tổn hại cho hình ảnh đất nước thì đã phải chủ động vất bỏ cái tên “cộng sản” đi ngay khi Liên Xô vừa sụp đổ, Quốc Tế Cộng Sản tan vỡ, đâu phải quay đầu thần phục kẻ thù truyền kiếp của dân tộc là Trungcộng, để rồi phải “hiến đất, dâng biển, nộp cá” cho chúng, mang tiếng Việtgian bán nước cho ngoại bang, ngàn đời lưu xú. Bọn Việtcộng hiện nay đã không thuộc bài học vỡ lòng, mà Hồ Chí Minh đã thực hiện khi cướp được chính quyền năm 1945 là phải giải tán đảng Cộng Sản Đông Dương, để núp dưới chiêu bài Dân Tộc Kháng Chiến mới tồn tại. Lúc đủ mạnh cũng chỉ dám lấy tên là đảng Lao Động Việt Nam. Mãi đến khi Việtcộng cướp trọn Miền Nam, Lê Duẩn vì hãnh tiến, ngu xuẩn đã đổi tên đảng là Cộng Sản Việt Nam, đổi luôn tên nước là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, khiến cho bọn đàn em bây giờ, khi cần hội nhập với thế giới Dân Chủ Văn Minh phải nêu ra vấn đề, tự đặt lại nhãn hiệu để thay đổi danh xưng.

Vậy, chính vì mặt mủi của nhóm cầm quyền tại Hànội trên trường ngoại giao quốc tế, Việtcộng mới phải xì ra cái tin với nhà báo Singapore là sẽ bỏ danh xưng “cộng sản” ác ôn, khát máu đi, để thế giới không dị ứng, chứ đâu phải là vì quốc dân. Kinh nghiệm lịch sử đau thương của dân tộc dậy rằng: Đảng Cộngsản Việtnam từng đã giải tán, nhưng chính quyền vẫn còn trong tay bọn họ, thì một lúc nào đó, khi họ loại trừ hết địch thủ, vượt qua những trở lực, họ sẽ lại hiện nguyên hình là một đảng độc tài toàn trị, với một cái tên nào đó để đáp ứng với nhận thức chung của từng giai đoạn. Lần này Việtcộng đừng hòng dở trò lừa dối đó để thuyết phục nổi dư luận nữa. Toàn dân Việtnam trong, ngoài nước và cả nhân loại đều biết rõ nhu cầu cấp thiết của Việtnam hiện nay là gì? Đó là Việtnam phải Dân Chủ Hóa triệt để. Khi nói đến “Dân Chủ Hóa” tức là đã mở ra một sinh lộ để Việtcộng xuống khỏi lưng cọp. Việtcộng cứ việc giữ lấy tên “cộng sản” mà chuộc tội với dân tộc và toàn dân, bằng cách tiến hành ngay công trình “dân chủ hóa” từ dễ tới khó.

Việc dễ làm, mà bớt nguy hiểm nhất đối với chính quyền tham nhũng gian ác Việtcộng là cho Tự Do Tôn Giáo. Nhìn nhận các Giáo Hội Dân Lập được công khai sinh hoạt. Cởi trói cho các Tôn Giáo đang nằm trong Mặt Trận Tổ Quốc, với quy chế “xin cho” của một Hiệp Hội, để các Tôn Giáo đó trở thành các tôn giáo có tính pháp nhân của giáo hội dân lập, độc lập với chính quyền trong việc hướng dẫn tâm linh con người và phụng sự xã hội. Ban hành đạo luật Tự Do Lập Hội, để các tập thể Xã Hội Dân Sự xuất hiện, trong đó có các Chính Đảng và Nghiệp Đoàn độc lập được tự do hoạt động. Tư nhân hóa truyền thông và Tự Do Ngôn Luận, từ đó thâu thập ý kiến đóng góp của toàn dân xây dựng Bản Hiến Pháp Tự Do Dân Chủ, Của Dân, Do Dân, Vì Dân đích thực, để thay cho bản Hiến Pháp Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam 1992, vi hiến, độc đảng toàn trị phản động hiện nay, nhằm tạo ra một Cơ Chế Công Quyền Dân Chủ, Phân Nhiệm (lập pháp, hành pháp, tư pháp), Điều Hợp mọi sinh hoạt Quốc Dân và Quốc Tế, hoàn toàn dựa trên Luật Pháp Dân Chủ.

Khi đã có sinh hoạt Xã Hội Tự Do để các tập thể Xã Hội Dân Sự và Truyền Thông Báo Chí tự bảo vệ quyền lợi của chính mình và của toàn dân, thì đương nhiên là giám sát, kiểm soát các Cơ Chế Công Quyền Dân Chủ, buộc những người cầm quyền phải tuyệt đối tôn trọng và nghiêm chỉnh thi hành đúng luật pháp Dân Chủ Quốc Gia. Chỉ có như vậy Chính Quyền mới không lạm quyền, tùy tiện ngồi lên hiến pháp, luật pháp như Việtcộng hiện nay. Hay là các Chính Quyền tiếng là do dân cử, mà khi Người Lãnh Đạo nắm được quyền lực và vũ lực, tức là Tài Chánh, Công An và Quân Đội trong tay, rồi khống chế Lập Pháp, Tư Pháp bóp chết Tự Do của toàn dân. để trở thành “Nhà Độc Tài khoác áo Dân Chủ” thì lúc đó đất nước tuy có hiến pháp, có bầu cử, nhưng cũng chỉ là nhà nước độc tài phản dân hại nước mà thôi. Khi, một chính quyền không dựa vào dân, không được dân hậu thuẫn, bị dân ghét bỏ, chống đối, mà muốn tồn tại thì không còn con đường nào khác là phải luồn cúi ngoại bang. Hồ Chí Minh và các lãnh tụ Việtcộng trước nay là tấm gương tầy liếp cho mọi người, hết theo Nga chống Tầu, rồi Nga thất thế quay lại theo Tầu chống Dân.

Giờ đây quen thói tay sai ngoại bang, lại muốn đổi tên đảng để dễ bề theo Mỹ. Nhưng Việtcộng đã bé cái lầm. Mỹ sau chiến tranh lạnh không còn dùng các chính quyền độc tài tay sai để dễ bảo, dễ thay nữa, mà chính quyền Mỹ, dù Cộng Hòa hay Dân Chủ cũng phải tuyệt đối theo đúng sách lược của nước Mỹ: Trực tiếp đến thẳng với chủ nhân đích thực của mỗi nước là toàn dân, mà Mỹ định đầu tư phát triển lâu dài. Chính vì vậy, mà hiện nay nước Mỹ lấy Nhân Quyền làm nguyên tắc cho chính sách ngoại giao của họ. Đòi hỏi các nước mà Mỹ nhận làm đối tác kinh tế phải Dân Chủ Hoá chính trị, Tự Do Hóa xã hội, Thị Trường Hoá kinh tế. Việtnam đã được Mỹ cho quy chế Quan Hệ Thương Mại Bình Thường Vĩnh Viễn - PNTR – đã được Mỹ dắt vào Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới – WTO – đã được Mỹ công khai ủng hộ để ngồi vào chiếc ghế Hội Viên Không Thường Trực của Hội Đồng Bảo An LHQ. Như vậy về mặt quốc tế, Việtnam đã hội nhập Kinh Trường Thế Giới, đã sắm một vai trò trọng yếu trên Chính Trường Quốc Tế. Lẽ đương nhiên chính quyền Bush phải chịu trách nhiệm về các hành vi sai trái, như vi phạm nhân quyền, mà Việtcộng có quán tính lật lọng. Chính vì vậy, mà một Phái đoàn của Ủy Hội Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo trên Thế Giới đã đến Việtnam từ ngày 21/10/07 để điều tra về vấn đề tôn giáo, ngoài việc gặp nhà cầm quyền Việtcộng, phái đoàn đi gặp các nhà lãnh đạo tôn giáo được công khai sinh hoạt, cùng các tôn giáo dân lập bị Việtcộng đặt ngoài vòng pháp luật, như hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng VHĐ, hòa thượng Thích Thiện Hạnh Chánh Thư Ký VTT, thượng tọa Thích Chí Thắng, Đặc Ủy Thanh Niên, huynh trưởng Lê Công Cầu, Vụ Trưởng Gia Đình Phật Tử của GHPGVNTN. Ngày 26/10/07 tại Thanh Minh thiền viện, hòa thượng Thích Quảng Độ đã trình bầy với chủ tịch Ủy Hội, ông Michael Cromatie và phái đoàn về hiện tình GHPGVNTN, kéo dài từ 14 giờ 30 tới 16 giờ 15. Phái đoàn thực sự quan tâm tới hoàn cảnh khó khăn và bị bức hiếp của GHPGVNTN. Kế đó mới là việc một phái đoàn Kinh Tế của Mỹ đến Việtnam để lo việc làm ăn. Bây giờ là lúc Mỹ dùng Nhân Quyền đi trước Kinh Tế theo sau. Rồi Quốc Hội Mỹ thông qua Đạo Luật Nhân Quyền Việt Nam 3096, để Hành Pháp Mỹ theo đó thúc đẩy tiến trình Dân Chủ Hoá Việt Nam sớm thành sự thật.

Little Saigon ngày 30/10/2007.

Lý Đại Nguyên

Hầu như cả dư luận quốc tế và lối nhìn dễ dãi của người Việt trong và ngoài nước đang bị Việtcộng lùa vào một mê hồn trận giữa nhận thức bất minh về “Tôn Giáo và Tín Ngưỡng”. Sự thật thì Việtnam hiện nay Việtcộng đã cho Tự Do Tín Ngưỡng thả giàn. Những nơi thờ tự mọc ra và trùng tu nguy nga. Dân chúng tha hồ đi cúng, lễ ở đền, chùa, nhà thờ, thánh thất. Thậm chí nhân đó chúng còn cho phép các loại mê tín dị đoan khác xuất hiện, nhằm bôi bác các nền tín ngưỡng chân chính. Nhất là chúng dám đem tượng tên dâm thần, ác tặc, vua bịp Hồ Chí Minh vào đền, chùa, để thờ chung với Quốc Tổ và Đức Phật. Các phái đoàn tôn giáo từ ngoại quốc được đón tiếp linh đình tại Việtnam. Thật trái ngược với chủ trương vô thần, cấm tín ngưỡng, bắt toàn dân phải tuyệt đố trung thành với lý tưởng duy vật của chế độ cộng sản trước đây. Khiến dư luận cho rằng ở Việt Nam đã có Tự Do Tôn Giáo. Thật là nham hiểm chúng đã dùng thứ “Tự Do Tín Ngưỡng” hổ lốn, mê hoặc lòng dân, để che đậy chủ trương “Khống Chế Tôn Giáo”.
Nói đến một Tôn Giáo hoàn chỉnh thì phải có: Giáo Chủ, Giáo Lý, Tu Sĩ, Tín Đồ, Giáo Hội, Đền Thờ, Tu Viện và các phương tiện truyền giáo như Kinh Sách, Truyền Thông, Giảng Thuyết, và các cơ sở Từ Thiện, Giáo Dục vv. Vậy, Giáo Hội là một tổ chức quy mô, tập họp Dân Chúng thành một Khối Lực Tín Ngưỡng Dân Lập, mà phải độc lập với chính quyền, để tự do hành hoạt thì mới gọi được là Tự Do Tôn Giáo. Chính vì sợ dân, nên Việtcộng chỉ chấp nhận các giáo hội đã bị thuần hóa, mà lại phải nằm trong hệ thống Mặt Trận Tổ Quốc, do cộng đảng lãnh đạo, mới được công khai sinh hoạt. Còn các Giáo Hội Dân Lập như Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thì bị đặt ngoài vòng pháp luật của Việtcộng. Chẳng biết vì ngây thơ, hay giả vờ chậm hiểu, mà trong cuộc gặp Cộng Đồng Người Việt tại Little Saigon, ông Michael Michalak, đại sứ Mỹ tại Việtnam đã nói:
“Không biết hòa thượng Quảng Độ đã có nộp đơn lên nhà nước CSVN để xin giấy phép hoạt động chưa, và nếu hòa thượng Quảng Độ nộp đơn xin hoạt động thì tôi sẽ binh vực, đòi quyền hoạt động tôn giáo cho Ngài…”.
Lập tức dân biểu Rohrabacher lên tiếng rằng:
“Quyền tự do tôn giáo phải là tự động, chứ sao lại xin phép hoạt động mới cho”.
Dân biểu Rohrabacher đã dựa trên Tu Chính Án Số I của Hoakỳ để phát biểu.

Còn người Việt chúng ta thì dựa vào lịch sử dân tộc để khẳng định rằng: Đạo Phật đã hiện diện ở Việtnam trên 2.000 năm nay, đâu có phải xin phép ai. Từ thời Lý, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn, triều đại nào sùng Đạo Phật thì thời đó Phật Giáo phát triển mạnh, nếu không thì Đạo Phật vẫn êm đềm sống trong lòng dân, cùng tồn tại với dân tộc. Cho đến năm 1964, giáo hội 3 miền Trung, Nam, Bắc Di Cư và hết thảy các Tông Phái Phật Giáo tại Việtnam đã kết hợp thành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Thống nhất không phải chỉ là giữa các tông phái Phật Giáo tại Việtnam, mà còn mang ý nghĩa Quốc Tế trọng đại hơn, đó là thống nhất trọn vẹn giữa Hai thực thể Đại Thừa và Tiểu Thừa, vốn đã bị chia lìa từ trên 2 Thiên Niên Kỷ trước, để thành một Giáo Hội Phật Giáo duy nhất. Có lẽ chỉ ở Việt Nam, với truyền thống dung hóa của dân tộc, mới làm được đại sự ấy. Rồi Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa biểu quyết công nhận tính cách pháp nhân của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Khi Viêtcộng vào chiếm Miền Nam 1975 thì GHPGVNTN vẫn công khai sinh hoạt và tổ chức Đại Hội năm 1977. Mãi đến năm 1981, Việtcộng mới bắt bỏ tù những vị lãnh đạo GHPGVNTN, để cho ra đời Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, nằm trong Mặt Trận Tổ Quốc do Cộngđảng lãnh đạo. Nhưng cũng không có văn bản nào hủy bỏ tư cách pháp nhân của GHPGVNTN. Vậy đứng trên mặt lịch sử và pháp lý. Giáo Hội Thống Nhất Dân Lập, độc lập với chính quyền đâu phải xin phép hoạt động, mà nếu Việtcộng muốn thực hiện Tự Do Tôn Giáo tại Việtnam thì phải công nhận Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là một thực thể Giáo Hội đương nhiên sinh hoạt hợp pháp mới phải đạo.

Điều đáng nói ở đây, còn rất nhiều người chưa phân biệt thế nào là Giáo Quyền với Thế Quyền. Thế quyền thì dễ phân biệt dân chủ và độc tài. Còn giáo quyền, nếu cũng lấy con mắt thế tục để nhìn và phân biệt thì sai bét. Giáo quyền vốn từ ơn trên ban xuống. Các tôn giáo thờ Thượng Đế thì giáo quyền còn gọi là Thần Quyền. Các nhà lãnh đạo giáo hội phài do Thiên Ý định đoạt. Chính vì vậy mà Giáo Hội Lamã, không bao giờ có người ứng cử chức Giáo Hoàng. Đã không có ứng cử thì cũng chẳng có bầu cử, như toàn dân bầu Tổng Thống, mà Hội Đồng Hồng Y phải tĩnh tâm cầu nguyện để ơn trên soi sáng, nhằm suy cử Giáo Hoàng. Qua nhiều vòng bỏ phiếu cho đến khi xuất hiện một vị duy nhất lên ngôi Giáo Hoàng. Giáo Hoàng, phong chức cho các Hồng Ý và Giám Mục. Giám Mục phong chức cho Linh Mục để điều hành giáo hội. Đức Phật không chủ trương thiết lập Giáo Quyền và Giáo Hội Trung Ưng. Gíáo quyền do Thầy, Tổ truyền xuống cho đệ tử. Đến Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất, tuy là một tôn giáo lấy Tâm Linh Con Người làm chủ, nhưng Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương cũng phải tĩnh tâm cầu nguyện, nương vào Phật Lực gia hộ để suy cử lên Đức Tăng Thống, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo và Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống. Vị Viện Trưởng VHĐ thỉnh cử các phụ tá, cũng như thỉnh tuyển những người điều hành giáo hội địa phương.

Măc dầu giáo quyền được đặt trên vai các bâc tôn túc, nhưng GHPGVNTN triệt để thực hiện nguyên tắc “Quán Thế Âm”. Nghĩa là tuyệt đối tôn trọng ý kiến của Đại Chúng, qua quyết nghị của Đại Hội. Tất cả chủ trương, đường hướng hành hoạt của Giáo Hội đều phải được đưa ra thảo luận công khai và biểu quyết với đa số tương đối tại Đại Hội, theo đúng nguyên tắc tự do dân chủ. Rồi hàng lãnh đạo Giáo Hội có trách nhiệm phải thực thi nghiêm túc những quyết nghị đó của Đại Hội. Ngay từ Đại Hội khởi thủy của GHPGVNTN, giáo hội đã chủ trương Phụng Sự Dân Tộc và Đạo Pháp, dù trải qua cuộc pháp nạn khủng khiếp dưới chế độ cộng sản vô tôn giáo, độc tài, toàn trị, khủng bố, sắt mắu. Cho đến nay, giáo hội đã có cơ tái phục hoạt, giáo hội vẫn kiên cường theo đuổi chủ trương Phụng sự Dân Tộc và Đạo Pháp. Bởi vậy mới phải áp dụng đường hướng bất bạo động, nhằm vận động Phục Hoạt Giáo Hội và tranh đòi Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền cho Toàn Dân, để Việtnam sớm có Dân Chủ thực sự, để Việtnam thoát ách đọa đầy, để Việtnam vận động được nội lực dân tộc, nhằm phát huy tinh thần chủ động hội nhập với thế giới thời đại. Việc trước mắt là chư Tăng, Ni, Cư Sĩ, Phật Tử trong, ngoài nước cần giũ bỏ những tư kiến vặt vãnh sai khác, để tập trung tâm, ý, lực vào lý tưởng Phụng Sự Dân Tộc và Đạo Pháp của Giáo Hội, rồi cùng với các Tôn Giáo bạn và toàn dân, vận động cho Việtnam sớm thoái cơn Quốc Nạn, để các Tôn Giáo đều độc lập, tự do vào đời phục vụ cho Quốc Dân, trong một xã hội tự do, dưới chế độ dân chủ thực sự.

Little Saigon ngày 16-10-2007.

Lý Đại Nguyên

Do đức từ bi và đại nguyện cứu khổ, cứu nạn của Đạo Phật, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã thực hiện 3 cuộc công khai cứu trợ Dân Oan tại Sàigòn, ngày 13/07 và 17/07; cũng như tại Hànội ngày 23/08/2007. Nhất là vào ngày 17/07/07, có sự xuất hiện của Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, hòa thượng Thích Quảng Độ, cùng chia xẻ nỗi oan khuất với Dân Oan của các tỉnh Miền Nam tập trung về Sàigòn để khiếu kiện trong vô vọng. Vô vọng vì từ trước tới nay, Dân Oan chỉ có một cửa duy nhất là kêu oan với chính những kẻ đã tham lam, quyết tâm, cố ý tạo ra cảnh oan khiên đó. Vậy, Dân Oan thấp cổ, bé miệng, nghèo khó, làm sao, và đến kiếp nào mới được đền đáp xứng đáng!? Trong khi đó dân chúng đô thị thì lo bươm chải kiếm sống, thời giờ đâu mà lo chuyện bao đồng. Đến khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất dân lập và ngài Quảng Độ nhập cuộc cứu trợ Dân Oan, thì tình thế lập tức đổi chiều. Dư luận người Việt trong, ngoài nước và quốc tế bắt đầu quan tâm và hết mình hỗ trợ Dân Oan Việt Nam, mà từ lâu đã bị bỏ quên, để mặc cho bọn Tham Nhũng Việt Cộng, lớn, bé tha hồ cướp, bóc lớp dân cùng khổ này.
Bọn Việtcộng thực sự hoảng sợ, họ đã vội vàng “chính trị hóa” vấn đề, cho rằng ngài Quảng Độ đã điểm trúng tử huyệt của “Đảng Việt Cộng Tham Nhũng”. Nên lập tức xuống tay đàn áp, giải tán Dân Oan. Rồi mở chiến dịch toàn diện đánh phá hòa thượng Thích Quảng Độ, và hàng giáo phẩm Viện Hóa Đạo, cũng như 22 ban đại diện của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Với một Giáo Hội đã bị Việtcông cố tình khai tử từ năm 1981, mà đã tự bứt phá cùm xích để ngang nhiên phục hoạt giữa trùng trùng hiểm nguy, kể từ ngày 02/05/1992 cho đến nay, thì sự đánh phá, quy chụp, nói xấu, khủng bố, trấn áp, bỏ tù, quản chế, đấu tố của chế độ độc đảng, độc tài, toàn trị Việtcộng đối với hàng lãnh đạo và tổ chức Giáo Hội mà không xẩy ra mới là chuyện lạ. Nhưng điều tối nguy hiểm cho giáo hội là Việtcộng đã vận dụng được những tăng sĩ, vốn từng là nạn nhân hàng đầu của cộng sản trước kia ở trong nước, và những cư sĩ có công lớn trong công cuộc phục hoạt giáo hội tại hải ngoại, để chống laị cá nhân hòa thượng Quảng Độ, chỉ vì tâm trong sáng, tính cương trực, hạnh kiên trì bất khuất của Ngài, không chịu thỏa hiệp với chế độ độc tài Việtcộng trong khi Việtnam chưa có tự do tôn giáo, người dân Việtnam chưa được sống trong chế độ dân chủ tự do thực sự.

Họ cho rằng chính ngài Quảng Độ là trở lực trong việc Việtcộng thừa nhận tính cách hợp pháp của giáo hội. Vì nhà cầm quyền Việtcộng đã đưa ra miếng mồi nhử, rất dễ nuốt, đối với những kẻ thiển cận, muốn mau chóng thay đổi tư thế một giáo hội nạn nhân trở thành một giáo hội thỏa hiệp, qua 3 lựa chọn. 1- Chấp nhận danh xưng GHPGVNTN nhưng loại bỏ 2 ngài Huyền Quang và Quảng Độ. 2- Phải bỏ danh xưng GHPGVNTN, lấy một danh xưng khác. 3- Sát nhập 2 giáo hội dân lập và đảng lập vào thành Tổng Giáo Hội. Lẽ tất nhiên cả ba hình thái giáo hội đó vẫn phải chịu chi phối bởi quy chế “xin cho”của Pháp Lệnh Tôn Giáo Tín Ngưỡng, phải thống thuộc trong Mặt Trận Tổ Quốc do cộng đảng lãnh đạo. Cả 3 lựa chọn đó chỉ là một sự đầu hàng nhục nhã, phản bội lý tưởng của tăng, ni, phật tử đã hy hiến sinh mạng cho đạo pháp, những hy sinh của tăng, ni, phật tử đã bị đầy ải, cầm tù; nhất là dập tắt nguồn hy vọng của phật tử cũng như toàn dân đang hướng về Giáo Hội Dân Lập Truyền Thống của Dân Tộc, để cùng góp sức trong công cuộc tranh đòi Tự Do Dân Chủ cho Việtnam.

Để tránh nạn Việcộng dùng những người thân quen của giáo hội hợp sức với họ lũng đoạn tổ chức của Giáo Hội ở trong cũng như hải ngoại. Nhất là việc Việtcộng có thể dùng bạo lực để triệt tiêu Lưỡng Viện Tăng Thống và Hóa Đạo, nên Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang, ngày 08/09/2007 đã ban hành Giáo Chỉ số:09/VTT/GC/TT, thành lập Văn Phòng II Viện Hóa Đạo đại diện cho Viện Hóa Đạo tại hải ngoại, truyền đạt chủ trương đường lối và hoạt động của Giáo Hội. Văn Phòng ÌI trực thuộc sự chỉ đạo của Viện Trưởng VHĐ. Thành viên Văn Phòng II do Viện Trưỏng VHĐ thỉnh tuyển, bổ nhiệm. Văn Phòng ÌI, nối tiếp nhiệm vụ và hoạt động của Giáo Hội gặp lúc Viện Hóa Đạo trong nước bị đàn áp không thể hoạt động. Văn Phòng ÌI và các thành viên được thỉnh cử hoạt động vô thời hạn. Hòa thượng Thích Hộ Giác được thỉnh tuyển và bổ nhiệm làm Chủ Tịch Văn Phòng ÌI VHĐ. Thượng tọa Thích Viên Lý, tổng thư ký. Sư bà Thích Nữ Nguyên Thanh, tổng thủ bổn… và các thành viên khác đều là những người có thành tích kiên trì phục hoạt giáo hội và tranh đòi tự do dân chủ cho quê hương. Như thế Việtcông không thể thò tay ra hải ngoại để phá hoại được. Trước đây khi các vị lãnh đạo Giáo Hội trong nhà còn bị cầm tù thì chính Tăng, Ni, Cư Sĩ tại hải ngoại là lực lượng tiền phong trong phong trào phục hoạt Giáo Hội. Vậy Việtcộng đừng hoang tưởng là tiêu diệt nổi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất nữa.

Việc kiện toàn và tinh hóa lại hệ thống điều hành Giáo Hội lần này, tuy là một cuộc giải phẫu kịp thời, nhưng mất mát khá nặng về mặt tình cảm. Trong Thông Bạch Hướng Dẫn Thi Hành Giáo Chĩ số 09 của Đức Tăng Thống. Hòa thượng Viện Trưởng VHĐ đã nhắc tới bản phúc trình của hòa thượng Thích Thiện Hạnh, Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống về việc 2 cư sĩ hải ngoại Trần Quang Thuận và Bùi Ngọc Đường chê trách hòa thượng Thích Quảng Độ. Nguyên văn của ngài Thiện Hạnh là: “Sau hết Bùi Ngọc Đường còn khuyên chúng tôi từ chức Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống để nghỉ ngơi, giống hệt như lời thượng tướng công an Nguyễn Văn Hưởng đã khuyên Đức Tăng Thống thôi việc, nghỉ ngơi. Giọng điệu hai anh như muốn thỏa hiệp (với nhà nước) để sinh hoạt, ý tưởng ấy còn được thấy rõ qua nhóm Thân Hửu Già Lam” . “Chúng tôi được biết, ở tu viện Quảng Hương Già Lam (Gò Vấp Sàigòn) cách đây một năm đã thành hình một nhóm có tên gọi ‘Thân Hữu Già Lam’. Thành viên khoảng trên dưới 40 vị, gồm các thành phần Tu sĩ, Cư sĩ, Cư sĩ tu xuất, có mặt trong, ngoài nước khắp các châu lục. Các vị sinh hoạt dưới dạng Tăng Già, chưa dám đứng hẳn vào Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam năm 1981 (tức là Giáo Hội Phật Giáo Nhà Nước). Các vị quyên góp gây quỹ xây dựng Đại Học, Thư Viện, Hội Trường, làm Văn Hóa, Giáo Dục Phật Giáo. Đứng đầu nhóm có giáo sư tiến sĩ Lê Mạnh Thát và học giả thượng tọa Thích Tuệ Sỹ”.

Nói thật cho mà biết, Việtcộng còn cầm quyển ngày nào, thì lời hứa của họ với các vị về các công trình Văn Hóa Phật Giáo nêu trên, đến kiếp sau cũng chẳng có. ( Buồn quá Tuệ Sỹ ơi! Không biết Tuệ Sỹ còn nhớ cái án tử hình của mình không? Có nhớ mấy chữ khi còn ở tù viết ra cho thầy Đức Nhuận rằng: “Giáo Hội Phật Giáo không thể nằm trong Mặt Trận Tổ Quốc” không? Tg). Nói gì thì nói, làm gì thì làm, GHPGVNTN còn các ngài Huyền Quang, Quảng Độ, Thiện Hạnh, và ngài Đức Chân là Già Lam Truyền Thừa, cùng quyết tâm phục hoạt Giáo Hội Dân Lập Truyền Thống, dù cho các Ngài còn bị quản chế, hay ở tù, thì Tăng, Ni, Cư Sĩ, Phật Tử trong, ngoài nước vẫn hướng theo các Ngài, để góp sức với Văn Phòng II VHĐ và toàn dân trong công cuộc vận động Tự Do Dân Chủ cho Việt Nam đến thành công.

Little Saigon ngày 09-01-2007.

Lý Đại Nguyên
Từ ngày Nguyễn Tấn Dũng ngồi vào ghế thủ tướng, chưa thấy làm được điều gì ích nước lợi dân, chỉ thấy toàn là những hành vi chống lại với tiến trình đổi mới. Điều đáng tức cười nhất là Dũng luôn luôn tự rút súng bắn vào chân mình. Như việc đi gặp Giáo Hoàng của Kitô Giáo Hoàn Vũ ở Lamã xong, liền để mặc đàn em đập phá tượng Đức Mẹ Sầu Bi và bỏ tù Lm Nguyễn Văn Lý, rồi hô hoán lên là Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và Tòa Thánh Vatican đồng ý. Để Giáo Dân và Giáo Hội Kitô phải có thái độ phản đối. Điều ngu muội nhất là Dũng đã tự bắn vào đầu mình khi ban hành chỉ thị số 37/CP, ngày 29/11/2006, nhằm bịt miệng báo chí, tạo điều kiện cho khuynh hướng bảo thủ đưa Lê Doãn Hợp vào chức Bộ Trưởng Thông Tin Truyền Thông để buộc tất cả báo giới Việt Nam phải “đi đúng lề đường bên phải” của phe bảo thủ, có nghiã là đi trái hướng của đường đổi mới. Biết rằng, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết sở dĩ có được vị thế lãnh đạo hôm nay, đều nhờ vào không khí đổi mới, phát xuất từ Miền Nam, mà tờ báo Tuổi Trẻ của Sàigòn có công đầu.

Ấy thế mà chính tờ Tuổi Trẻ lại trở thành “con dê tế thần” cho phe bảo thủ của Nguyễn Tấn Dũng mới là đau. Kẻ đau nhất không ai khác hơn là cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt, người đỡ đầu của tờ Tuổi Trẻ lẫn Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Minh Triết. Ngay sau vụ 2 phó tổng biên tập của Tuổi Trẻ bị ngưng chức, Võ Văn Kiệt đã gặp cơ quan chủ quản của báo Tuổi Trẻ là Ban Thường Vụ Thành Đoàn Thanh Nìên. Trong gần 4 tiếng, Võ Văn Kiệt đã dùng nhiều thời giờ nói về vấn đề tổ chức, quản lý của Thành Đoàn với các đơn vị trực thuộc. Ông nói: “Tờ báo Tuổi Trẻ hay nhà xuất bản Trẻ, thời kỳ đấu tranh thành lập, nếu không có cơ quan quản lý, không ra đời được. Một tờ báo lớn nhất của cả nước không còn mặc được cái áo của Thành Đoàn trước đây, Tuổi Trẻ không chỉ viết về đối tượng tuổi trẻ, thanh niên, mà là tất cả đối tượng khác; không chỉ xã hội, đời sống, mà là những vấn đề chính trị nữa. Nó vượt quá tầm địa phương rồi”. Việc Võ Văn Kiệt quyết liệt nhập cưộc, với ý hướng muốn tờ Tuổi Trẻ không còn bị thống thuộc Thành Đoàn Thanh Niên Cộng Sản nữa, và với việc Nguyễn Tấn Dũng tự thủ tiêu tư thế đổi mới của mình, chắc chắn nội bộ Việtcộng sẽ còn nhiều màn trình diễn ngoạn mục.

Nhưng, trong nhất thời thì khuynh hướng bảo thủ đang thắng thế. Chúng đã đánh giập đầu tờ Tuổi Trẻ tiêu biểu cho khuynh hướng đổi mới, để bắt toàn thể báo chí Việtnam phải xếp hàng theo lệnh điều khiển của Lê Doãn Hợp, đồng loạt hợp xướng với bài bình luận của báo Nhân Dân điện tử đả phá Hòa Thượng Thích Quảng Độ và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, dưới tựa đề: “Thích Quảng Độ và các tham vọng chính trị đội lốt tôn giáo”. Trong đó nói, Hòa Thượng đã cầm đầu một số phần tử cực đoan, hoạt động chống phá nhả nước gây rối làm mất trật tự công cộng. Cùng với báo Nhân Dân, báo Tiền Phong và ViệtnamNet cũng đăng một loạt bài công kích việc Hòa Thượng Thích Quảng Độ và các cộng sự, tổ chức cứu trợ cho Dân Oan đi khiếu kiện nhà đất.
Vì vào ngày 17/07/2007, Hòa Thượng đã đích thân cùng với phái đoàn của Giáo Hội, đến gặp, an ủi, trợ giúp chút tịnh tài cho những Dân Oan khốn khổ, nheo nhóc, đói khát, tụ tập la liệt bên ngoài Văn Phòng Quốc Hội 2 ở Sàigòn cả tháng trời, để khiếu kiện, mà chẳng ma nào đoái hoài. Việc đó đã làm Việtcộng hoảng sợ, khiến chúng vội vàng xuống tay đàn áp, giải tán Dân Oan, làm cho dư luận người dân trong ngoài nước và quốc tế thêm oán ghét Việtcộng hơn. Lập tức Hoà Thượng nhân danh Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN đưa ra kêu gọi đồng bào trong ngoài nước, tiếp tay cứu trợ Dân Oan Việt Nam, lời kêu gọi được hưởng ứng nồng nhiệt. Rồi ngày 23/08/07, Ngài Quảng Độ lại ủy cho Thượng Tọa Thích Không Tánh, Tổng Vụ Trưởng Từ Thiện Xả Hội của Viện Hóa Đạo ra tận Hànôi để cứu trợ cho Dân Oan. Khiến lãnh đạo Viêtcộng cuống cuồng phải cho công an bắt Thầy ngay trước mắt Dân Oan, trong khi Thầy vừa mới trao tiền cứu trợ được một số người. Đây là một hành động thô bạo “ăn cướp cơm chim”, làm cho Dân Oan ngỡ ngàng, bật khóc và kêu réo vang trời, đòi Công An phải thả ngay Thầy Không Tánh ra. Sau một thời gian cầm giữ, đe dọa, thuyết phục thầy Không Tánh không kết quả, chúng buộc phải trả lại toàn bộ ngân khoản cứu trợ, kể cả số tiển bọn họ lấy được từ tay Dân Oan, rồi chuyển Thầy về Sàigòn thả xuống cổng chùa Liên Trì nơi Thầy cư ngụ.

Từ đó báo chí Việtcộng bắt đầu mở chiến dịch chụp mũ, tố cáo Hòa Thượng Thích Quảng Độ và Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất là khích động Dân Oan gây rối loạn. Đáng buồn là một số trí thức, chính khách gà mờ, vội cho rằng, không nên biến vụ việc Dân Oan Khiếu Kiện thành phong trào đấu tranh chính trị. Có thể là một tổ chức nào khác thì có ý đồ đó, nhưng với Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất, hay bất cứ một tôn giáo chân chính nào, thì luật Phật, luật Trời cũng buộc các tín đồ, tín hữu và các giáo hội đó đều phải có trách nhiệm thiêng liêng là cứu giúp những người lâm cảnh khốn khó oan khuất. Trước cảnh Dân Oan Khiếu Kiện Việt Nam đói khát, tàn tạ nằm vật vã la liệt, đi đứng vất vưởng nơi hè phố của Sàigòn, Hànội, mà không phát tâm cứu giúp thì kè đó không phải là Người, chứ đừng nói là bậc tu hành của tôn giáo chân chính. Thế nên dù biết rõ hành động cứu trợ Dân Oan của mình có bị Việtcộng vu khống lên án, hoặc bỏ tù, hay giết chết, thì ngài Quảng Độ và các vị thuộc Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất cũng hoan hỷ đón đợi.

Chỉ tội nghiệp cho Nguyễn Tấn Dũng, việc đánh phá ngài Quảng Độ và GHPGVNTN đi cứu trợ Dân Oan Khiếu Kiện lại chính là hành động Nguyễn Tấn Dũng tự bắn vào tim mình. Vì thực ra Dân Oan đa số là những đồng chí, đồng đội và đồng tình của Dũng trước kia, họ đặt nhiều hy vọng vào việc Dũng làm thủ tướng, Triết làm chủ tịch nước để oan khiên của họ được sớm giải quyết. Nhưng chẳng những chính phủ của Nguyễn Tấn Dũng đã lờ đi, đùn về cho bọn thủ phạm địa phương tự giải quyết, lẽ cố nhiên là “đánh bùn sang ao”. Dân Oan lại kéo lên Sàigon, Hànội để nhịn đói, chịu khát khiếu kiện. Thế mà bọn Dũng, Triết lại chận không cho Phật Giáo Thống Nhất cứu trợ thì quá là tàn nhẫn. Việc Nguyễn Tấn Dũng tự bắn vào chân, bắn vào đầu, bắn vào tim, rồi lê thân tàn què quặt, với cái đầu méo mó, trái tim không hồn tới Liên Hiệp Quốc xin làm hội viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An, thì nếu có được tổ chức Quốc Tế này thí bỏ cho vị trí đó, cũng chẳng vẻ vang gì cho Việtnam ta.

Little Saigon ngày 28/08/2007.

Lý Đại Nguyên

Công cuộc vận động Tự Do Tôn Giáo tại Việtnam kéo dài 30 năm 1975-2005, với biết bao hy sinh, bị bức tử, tù đầy đối với các bậc tu hành tôn quý và những người có niềm tin vào giá trị tâm linh. Bi thảm không cùng là phải mất tới 22 ngọn lửa tự thiêu, đều có một tâm nguyện là đánh động lương tri của đảng cộng sản cầm quyền, sớm trở lại tính người, biết tôn trọng nhân quyền, trả những quyền tự do cơ bản cho toàn dân, mau dân chủ hóa chế độ. Đồng thời cũng thắp sáng lên tinh thần vô úy nơi tâm hồn mỗi người dân đang chịu đầy đọa, để cùng vượt khỏi sự sợ hãi, minh danh, công khai đòi lại những gì người dân phải có, mà cộng sản đã cướp đoạt suốt 60 năm dài. Nên có nhiều người, nhiều giới trong nước bừng khởi khí thế, đứng lên công khai đấu tranh cho Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền, dù hiểm nguy vẫn trùng trùng bao phủ; rồi, từng người, từng người bị trả giá cho lòng dũng cảm và sự hiểu biết của mình. Do vậy, đã quy tụ đươc sự góp sức vận động không mệt mỏi của người Việt khắp nơi trong, ngoài nước. Chính cuộc vận động Tự Do Tôn Giáo từ bi hào hùng mà kiên trì quyết liệt, thể hiện thật đầy đủ văn hóa tính của dân tộc và trình độ văn minh thời đại, đã chinh phục được lương tâm nhân loại, thuyết phục nổi dư luận toàn thế giới không ngừng hỗ trợ, buộc nhà cầm quyền cộng sản Việtnam phải chùn tay đàn áp, khiến cho các Tôn Giáo Dân Lập có thể ngang nhiên phục hoạt và kiện toàn tổ chức, tuy vẫn còn bị nằm trong sự o ép rình rập thường xuyên.

Từ cuối năm 2005 đến đầu năm 2006, các cuộc biểu tình bãi công đòi quyền lợi của giới lao động nổ ra và lan rộng khắp nước, lay động tới tận gốc rễ của chế độ bạo quyền cộng sản, từ lâu nay vẫn nhân danh giới lao động để cướp quyền lãnh đạo Quốc Gia của toàn dân. Nay chính người lao động Việt Nam đã đứng dậy tố cáo chế độ đó đang toa rập với các chủ nhân ngoại quốc, bóc lột, hành hạ và đầy đọa công nhân Việt Nam, giống như các Nông Nô, Công Nô thuộc Lãnh Chúa Phong Kiến xưa và Chủ Nhân Tư Bản man rợ Âu Châu thế kỷ 19, thời phát sinh Cộng Sản Chủ Nghĩa. Dù rằng chế độ cộng sản trên toàn thế giới nay đã sụp đổ, nhưng nhóm lãnh đạo Hànội vẫn bám lấy thứ chủ nghĩa lỗi thời thổi rữa Mác Lê Hồ ấy, để duy trì quyền lực độc đảng độc tài toàn trị, nhằm che đậy chủ trương tham nhũng, rồi Tư Bản Hóa cộng đảng và đảng viên.

Để chuẩn bị dư luận cho đại hội X, đưa ra chủ trương công khai hóa việc đảng viên làm kinh tế tư nhân, nhằm hợp pháp hóa tài sản tham nhũng của đảng viên, đầu năm 2006, nhóm lãnh đạo đảng đã phát động phong trào toàn dân góp ý với đại hội X của cộng đảng, về chủ đề 20 năm đổi mới. Thật là sôi động, các cựu lãnh đạo đảng, những “trí thức” của đảng, chẳng những không lớn tiếng ca tụng đảng như xưa, trái lại mạnh bạo tấn công vào những sai trái của đảng, kể cả cơ chế lỗi thời, lẫn những sai lầm trong việc quản trị đảng và điều hành nhà nước một cách tùy tiện vi phạm kỷ luật đảng lẫn pháp luật nhà nước, dẫn tới quốc nạn tham nhũng hết thuốc chữa. Quan trọng hơn hết là họ đều nhắm thẳng vào Bản Báo Cáo Tổng Kết Lý Luân của khóa họp thứ 12 ban Chấp Hành Trung Ương Đảng đưa ra, trong đó vẫn cương quyết duy trì quan điểm cộng sản thủ cựu, là trung thành với “chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tất cả những bài góp ý công khai ngay trên báo đảng và mạng lưới toàn cầu, cùng có chung một nhận định: Nếu Việtnam cứ kiên trì giữ thứ xã hội chủ nghĩa hoang tưởng lạc hậu Mác Lê Hồ thì Việtnam mãi mãi tụt hậu so với lân bang, chẳng thể đổi mới nổi. Còn việc cho đảng viên làm kinh tế tư nhân, rõ ràng là lý luận của đảng nói một đàng làm một nẻo. Sự thật thì đảng viên cộng sản Việtnam, kẻ còn quyền cũng như người mất quyền, chẳng ai biết được hình thù của thứ xã hội chủ nghĩa, mà Hồ Chí Minh rước từ Nga về, rồi bắt mọi người phải tuyệt đối tôn thờ và thực hiện, nó là thứ quái quỷ gì? Đến thời phải thích ứng với Kinh Tế Thị Trường, cộng đảng đành phải cột vào đó thêm một cái đuôi kệch cỡm Kinh Tế Thị Trường “theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, lấy công ty Quốc Doanh là chủ đạo”.Để rồi Quốc Doanh luôn luôn khai làm ăn thua lỗ. Vì sự sống còn của nền Kinh Tế Thị Trường là phải đặt trọng tâm vào phát triển khu vực Tư Doanh, nên cộng sản buộc phải bỏ chủ trương lấy Quốc Doanh làm chủ đạo, cho đảng viên làm kinh tế tư nhân. Thế nên bằng cách này hay cách khác, họ đang hăng hái, hăm hở tự đào thải chủ nghĩa xã hội ra khỏi tư tưởng và đời sống thật của mình.

Những nhà ly khai, đối kháng, được dịp xoáy xâu vào cái gốc gian trá, mục rữa của chủ nghĩa Mác Lê và tư tưởng nô lệ của Hồ, nó đã tạo ra toàn là thứ quái dị “nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi”. Từ lãnh đạo xuống đảng viên “khỉ chẳng giống khỉ, người không ra người”, nó chỉ muốn có quyền để tham nhũng kiếm cho thật nhiều tiền, rồi từ chế độ xã hội chủ nghĩa lạc hậu, mau mau tiến lên chủ nghĩa tư bản tài phiệt man rợ. Nhất là cái cơ chế ‘song trùng” chồng chéo nhau, đảng quyền trùm lên chính quyền. Quốc Hội, Chính Phủ, Toàn Án là bù nhìn của đảng, mà đảng thì toàn do những thứ bất tài vô đức ngoan cố già cỗi ăn hại lãnh đạo, thế nên cả hệ thống cai trị nhà nước trở thành trì trệ trong công việc ích quốc lợi dân, nhưng lại quỷ quyệt ranh ma trong việc tham nhũng bóc lột dàn áp dân chúng, đục khoét ngân sách nhà nước.

Với không khí hào hứng góp ý đó, dư luận trong và ngoài nước cho rằng: Kỳ đại hội X này, sẽ có nhiều màn trình diễn đổi mới ngoạn mục, nhằm tạo ra một thời kỳ chuyển tiếp cho tiến trình dân chủ hóa chế độ, để có đủ tư thế vững vàng gia nhập thời đại toàn cầu hóa. Dù Nghị Quyết Đại Hội X không còn dám nhắc tới khẩu hiệu vô duyên Chủ Nghĩa Mác Lê Hồ. Nhưng buồn thay! Toàn văn bản Báo Cáo Chính Trị lỗi thời vẫn đã được thông qua. Nhóm lãnh đạo mới, khóa X, cũng lại do nhóm lãnh đạo cũ, khóa IX tiền chế để cho đại hội đảng bầu cho phải phép. Đúng là cha mẹ chuột chỉ có thể sinh ra con chuột con, chứ không cách gì đẻ được con voi lớn. Tuy nhiên “con chuột con” lần này được cái trắng trẻo mập mạp hơn “con chuột nhắt” kỳ trước. Vì trong nhóm 5 tên chóp bu lãnh đạo của cộng đảng lần này thì chỉ còn 2 kẻ được đào tạo trong môi trường văn minh “củ khoai” Miền Bắc, bởi thứ giáo dục nhồi sọ một chiều của Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Xô, còn 3 người trưởng thành trong không khí văn hóa “gạo trắng” Miền Nam, do nền giáo dục tự do cởi mở của nền Dân Chủ Toàn Cầu. Nhờ đó, may ra vẫn còn một chút hy vọng mỏng manh nhỏ nhoi cho tương lai gần của tiến trình đổi mới.

Chữ đổi mới ở đây dùng là chỉ cho những người cộng sản phải tự đổi mới, để bước kịp với tình thế Việtnam. Nếu không đổi mới kịp trào lưu thì sớm muộn cũng bị loại bỏ. Vì hiện nay dân Việtnam không còn sợ uy quyền của đảng nữa, dư luận quốc tế và nhu cầu của Việtnam phải hội nhập với sinh hoạt toàn diện của thế giới, đã là sợi giây vô hình trói tay đàn áp của nhà cầm quyền cộng sản độc tài trên ghế cai trị, không còn tự tung, tự tác khủng bố như xưa, mà chỉ được làm ra những trò ngu xuẩn vừa đủ để khích thích cho phong trào Tự Do Dân Chủ có dịp bộc phát, mở ra Mùa Công Khai Đấu Tranh Chính Trị Dân Chủ Toàn Diện của Toàn Dân.

Riêng về chổ dựa xưa nay cho quyền lực độc đảng độc tài của Việtcộng là đàn anh Trungcộng, vốn là một trở lực lớn nhất cho việc dân chủ hóa chế độ, thì Tổng Cục II chịu ảnh hưởng của Tình Báo Trungcộng đã bị loại, hâu hết nhóm lãnh đạo theo Bắc Kinh đã thất thế. Hoa Kỳ và các nước, các tổ chức cấp viện đang dùng sức mạnh của đồng Dollars đầu tư, cho vay và viện trợ để đè bẹp dí ảnh hưởng của Trung Cộng trong thực tế sinh hoạt thị trường và đời sống xã hội Việtnam, cũng như thổi bay ý niệm thân Tầu ra khỏi những chiếc đầu nô lệ, và ngay cả trong mơ ước của đảng viên Việtcộng, từ thấp lên cao. Vì hầu như tất cả đảng viên đều đang có cùng một giấc mơ là muốn cho con cái họ sang Mỹ học, rồi lấy vợ, gả chồng với những thanh niên nam nữ Mỹ gốc Việt, để lo cho tương lai lâu dài của họ, như các con của vị thủ tướng tuổi trẻ tài chẳng cao, đã sớm lo xa, nhìn sâu, thấy đúng, giống vị thủ tướng của nước láng giềng bên hông vậy. Nên năm 2007 tình hình Tự Do Dân Chủ Việt Nam nhất định sẽ sáng sủa thêm. Vì, ông Thần Tự Do và bà Tiên Dân Chủ Việt Nam đã xuất hiện.

Lý Đại Nguyên

Lý Đại Nguyên

Mặt trận Iraq, Mỹ chỉ mới bắt đầu chuyển hướng vào việc ngăn cuộc nội chiến, giúp chính quyền Mailiki giải thể các lực lượng dân quân vũ trang. Nhóm Mahdi Army của giáo sĩ quá khích Shiit, Muqtada al Sadr thân Iran bị truy lùng, tước khí giới. Chính al Sard đã bỏ trốn. Nhóm khủng bố người Sunni liên tục từng ngày bị tiêu diệt, mặc dầu các cuộc ôm bom tự sát của bọn Khủng Bố đánh vào dân thường đang còn diễn ra đều đặn. Nhưng cuộc lễ hội khổng lồ Ashura của giáo phái Shiit toàn thế giới, tập trung hàng triệu người, vẫn diễn ra ở thánh địa Karbala, gần Baghdad, đánh dấu 680 năm, lãnh tụ Imam Hussein cháu trai của Tiên Tri Muhammad tử trận, khiến Hồi Giáo chia thành 2 phái Sunni và Shia.

Xem ra niềm tin của người dân Shia vào tôn giáo mình đã bất chấp những đe dọa của bom mìn, và chính quyền Baghdad phần nào đã khởi sắc để thành một chính quyền Quốc Gia. Trái lại ở Iran, những người ôn hòa đã bắt đầu lên tiếng phản đối thái độ cộc cằn và đường lối ngoại giao phi chính trị của ông tổng thống Ahmedinejad. Trong khi đó Hoa Kỳ đang triển khai hỏa lực tại vùng Vịnh, nhằm giải quyết những bế tắc tại Trung Đông và tích cực áp lực toàn diện xuống Iran, để buộc chính quyền Tehran phải từ bỏ việc chế tạo nguyên tử và thọc tay vào nội tình Iraq, thì tại chính nước Mỹ, tổng thống Bush bị đảng Dân Chủ tìm cách trói tay. Dư luận phản chiến chỉ muốn quân Mỹ bị thất trận tại Iraq giống như ở Việt Nam trước kia.

Nhưng nều hướng nhìn về Á Châu thì thấy chính sách Mỹ ở đây đang tiến vào thế tạm yên. Hoa Kỳ và Hàn Cộng trực tiếp nói chuyện với nhau, để mở lại hội nghị 6 bên về vấn nhằm gỡ bỏ nguyên tử của Bắc Hàn. Có nghĩa là người bạn lớn Bắc Kinh đã phải quay mặt đi để đàn em Kim Chính Nhất được thành đạt nguyện vọng là đi thẳng với Hoa Thịnh Đốn. Trong khi đó Hồ Cẩm Đào chủ tịch Trung Cộng hân hoan cầm 3 tỷ USD đi giúp các nước Phi Châu, nhằm tạo ảnh hưởng lâu dài tại Lục Địa Đen này. Khởi đầu ngày 30-01-07, bằng chuyến công du 8 nước là Sudan, Nam Phi, Cameroon, Liberia, Zambia, Namibia, Mozambique và Seychelles. Trước đó, quan hệ Nhật Bản - Trung Hoa đã ấm lại. Đối tác kinh tế giữa khối ASEAN, với các nước trong vùng Á Châu Thái Bình Dương đi dần vào nề nếp. Chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ về Phương Đông xem như xuôi chèo mát mái.

Khiến cho Hànội yên tâm thiết lập quan hệ toàn diện với Mỹ và hội nhập với nền kinh tế Toàn Cầu. Nhưng Cộng Sản Việt Nam chỉ muốn hội nhập về mặt kinh tế và ngoại giao, còn về chính trị, nội trị thì vẫn giữ độc đảng, độc quyền giống như chế độ Gia Trưởng Khoác Áo Dân Chủ cha truyền con nối của Singapore. Bởi vậy, 10 năm trước, khi Việt Nam bước chập chững vào Đổi Mới đã mời ông thủ tướng Lý Quang Diệu của Singapore vào làm Tư Vấn cho Việt Nam. Năm nay thực tế là phải sống với Mỹ, nhóm lãnh tụ Hànội lại mời ông Lý tới để tham vấn. Vì trong các lãnh tụ Á Châu, Lý Quang Diệu là người nắm vững và đi đúng chiến lược toàn cầu của Mỹ nhất, nhờ thế mà tiểu quốc Singapore êm đềm phát triển không ngừng.

Ông Lý Quang Diệu đưa ra lời khuyên cho lãnh đạo Việtcộng: Về mặt quản lý, “đó là chính sách mạnh tay khi cần thiết, thay thế những cá nhân lỗi nhịp trong bộ máy…thực thi cải cách hành chánh với mô hình một cửa và đơn giản thủ tục, hoạch định chính sách dân số và quy hoạch đô thị, lương cao cho cán bộ viên chức, đánh thuế vào tiêu thụ, giảm thuế doanh nghiệp và thuế thu nhập của người dân”. Về đào tạo: “tự chủ hơn cho đại học” , “đưa tiếng Anh vào chương trình giảng dậy bắt buộc”. Theo họ Lý: “Thế giới đang thay đổi là thách thức lớn nhất. Nếu tự mãn với những gì đã có được, chúng ta sẽ chóng bị tụt hậu và bị vượt bỏ”. “Việt Nam cần luôn luôn thay đổi, cập nhật theo tình hình mới, có chính sách nhất quán theo một tầm nhìn lớn và bắt tay biến tầm nhìn lớn thành hiện thực”
Chẳng hiểu “thái thượng hoàng” Võ Văn Kiệt và nhóm lãnh đạo Hànội có tầm nhìn lớn đến đâu? Mà vừa trèo vừa run, vẫn cứ thay đổi cầm chừng nhỏ giọt. Đại Hội 4 Ban Chấp Hành Trung Ương vẫn nắm độc quyền chính trị, chỉ mới thu gọn cơ cấu đảng lại thành 6 đầu mối: 1- ban Tổ Chức, 2- ban Kiểm Tra, 3- ban Tuyên Giáo, 4- ban Dân Vận, 5- ban Đối Ngoại. 6- Văn Phòng Trung Ương, chưa dám Tư Nhân Hóa ngành Truyền Thông Báo Chí, chưa trao quyền cho cử tri trực tiếp bầu ra Quốc Hội. Hội nghị chỉ mới thống nhất chủ trương chuyển các Doanh Nghiệp làm kinh tế hiện thuộc các cơ quan Đảng, lực lượng vũ trang, mặt trận Tổ Quốc, các đoàn thể xã hội sang cho nhà nước quản lý từ năm 2007. Có nghĩa là từ nay, các doanh nghiệp do đảng, quân đội, công an, mặt trận, từ Trung Ương, các Bộ, xuống tới Tỉnh, Huyện, Xã trước đây thuộc quyền chủ quản của đảng, điều hành bởi cán bộ đảng viên, gọi chung là Đảng Doanh, nay đều thuộc quyền quản lý của Nhà Nước. Để cho chính phủ toàn quyền giải tư, nhằm đáp ứng với nguyên tắc Thị Trường của WTO. Việc này Trung Cộng đã thực hiện dưới thời Giang Trạch Dân và Chu Dung Cơ, tạo ra một rừng người thất nghiệp. Đến nay Hànội mới dám thực hiện. Lẽ cố nhiên những đảng viên đang điều hành các doanh nghiệp đó, nếu thấy có lời thì họ sẽ bỏ vốn vào để làm chủ, và phần còn lại thì các công ty ngoại quốc sẽ vào đầu tư, may ra thì Việt Nam thoát được cảnh thất nghiệp hàng loạt. Thấy rõ chỉ có 2 thành phần được lợi trong kế hoạch này là Đảng Viên làm kinh tế tư nhân và các nhà Đầu Tư ngoại quốc.

Dù nghiêm khắc tới mấy, thì cũng nên có cái nhìn chính xác về việc Cộng Đảng đang từng bước buộc phải giảm bớt quyền hành về mặt kinh tế, với hy vọng đặt vào việc các đảng viên làm kinh tế tư nhân sẽ biến Đảng thành một tập đoàn Tài Phiệt Man Rợ Cầm Quyền lâu dài, giống như cha con ông Lý Quang Diệu và Lý Hiển Long của tiểu quốc Singapore. Nhưng Singapore là một thành phố cảng đa sắc dân, họ chỉ có mục tiêu được thoải mái làm ăn giầu có. Chính quyền của họ Lý đã đáp ứng được nhu cầu của dân ở đây. Họ hoàn toàn khác với Việt Nam là một dân tộc có truyền thống Văn Hóa cá biệt, với tinh thần Độc Lập Tự Chủ cực mạnh. Nay thì truyền thống Văn Hóa Việt và tinh thần Tự Do Tự Chủ nơi người dân đang sôi sục bùng phát, qua Phong Trào Đòi Tự Do Dân Chủ của toàn dân trong và ngoài nước. Nếu Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng không nắm vững được Lòng Dân thì dù đang có Thế Nước trong tay, cũng chẳng làm nên đại sự.

Little Saigon ngày 30-01-2007 .

Lý Đại Nguyên

Dù là thành phần cộng sản bảo thủ cực đoan, hay những người quốc gia chân chính, không chấp nhận sự hiện hữu của chính quyền độc đảng độc tài cộng sản, thì cũng không thể phủ nhận được việc Việtnam đã thực sự phải hội nhập sinh hoạt kinh tế toàn cầu, và quan hệ ngoại giao của Việtnam đang mở rộng ra với mọi quốc gia. Vì Việt Nam đã chính thức trở nên thành viên của Tổ Chức WTO, và Tổng Thống Bush của Hoa Kỳ đã chính thức đến Việt Nam, đánh dấu sự kiện một nước cựu thù lớn nhất của Việt Cộng đã tăng cường liên hệ đầy đủ toàn diện, đặc biệt là vấn đề quan hệ quốc phòng và viện trợ quân sự cho Việt Nam. Thế nên, việc Nguyễn Tấn Dũng thủ tướng CSVN tới Vatican gặp Giáo Hoàng Bênêdictô để tiến hành việc thiết lập bang giao với Triều Đình Vatican trong tư cách 2 nước, thì đó là việc tự nhiên. Nhưng Vatican ngoài tính cách Triều Đình của một Quốc Gia lại còn là một Tòa Thánh của Kitô Giáo Hoàn Vũ, có 7 triệu tín đồ trung thành đang là công dân của Việt Nam, và cùng là nạn nhân của chế độ cộng sản như các tôn giáo khác ở Việt Nam. Đó mới là vấn đề nhức nhối cho tín hữu Kitô giáo Việt Nam, và khó xử đối với Giáo Hội Lamã.
Bởi thế một số linh mục, tu sĩ, giáo dân Việt Nam trong và ngoài nước, sống theo tinh thần của Cố Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền, vị mục tử đã tử vì đạo dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam năm1988 đã trình Thỉnh Nguyện Thư lên Giáo Hoàng Bênêdictô XVI, nêu rõ việc chế độ Cộng Sản Việt Nam đang còn đàn áp các tôn giáo bạn, như: 1- Giáo Hội Tin Lành Mennonite. Phật Giáo Hòa Hảo Thuần Túy. Không chịu thừa nhận 20 Ban Đại Diện của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và quản chế 2 vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội là Hòa Thượng Huyền Quang, và Hòa Thượng Quảng Độ hàng mấy chục năm nay. 2- Nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đã lập lại quyết tâm khống chế và công cụ hóa các Tôn Giáo qua Pháp Lệnh Tín Ngưỡng Tôn Giáo ngày 18/06/2004, và Nghị Định 22/CP ngày 01/03/2005. 3- Đảng và nhà cầm quyền cộng sản độc tài Việt Nam đang tước hết mọi Nhân Quyền và Dân Quyền, khiến toàn dân chưa có một cuộc bầu cử tự do công bằng nào suốt 60 năm qua. Làm hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, 83 triệu người đang phải sống cảnh đói nghèo bất công, chịu đựng các tệ nạn gian manh, cửa quyền, tham nhũng, bóc lột của đảng viên và cán bộ cộng sản. 4- Xin Giáo Hoàng dùng Ánh Sáng Tin Mừng, ánh sáng Công Lý và Tình Thương rọi chiếu vào bóng tối bạo lực, bất công, gian trá, hận thù đang ngự trị trên đất nước Việt Nam, để Tổ Quốc Việt Nam sớm có đầy đủ Tự Do, Dân Chủ như hầu hết các nước văn minh trên toàn cầu. Mong ước Tòa Thánh chỉ bang giao cùng nhà cầm quyền cộng sản Việtnam với một trong các mục đích chính là tạo áp lực để cộng sản từ bỏ độc tài toàn trị, và trả lại mọi Nhân Quyền và Dân Quyền cơ bản cho các Giáo Hội và các Công Dân Việtnam.

Thỉnh nguyện thư trên đây là lời tâm huyết, chí tình, chí chính của một số linh mục, tu sĩ, giáo dân Kitô giáo trong và ngoài nước. Nói lên rằng: Những tập thể Giáo Dân Kitô đã thấy rõ được âm mưu của Cộng Sản Việt Nam đang sử dụng chính sách gây chia rẽ, hận thù lâu dài giữa các Tôn Giáo trong Cộng Đồng Dân Tộc Việt Nam. Thiết lập bang giao với Giáo Triều Vatican của Kitô Giáo Hoàn Vũ để lấy lòng Âuchâu và Thếgiới, nhưng vẫn đàn áp các Tôn Giáo Truyền Thống Dân Tộc. Đồng thời dùng Pháp Lệnh Tín Ngưỡng Tôn Giáo buộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và Giáo Dân Kitô trong nước phải nằm trong chế độ “xin cho” trực thuộc Mặt Trận Tổ Quốc, một tổ chức ngoại vi của Cộng Đảng. Đây cũng là sự nhắc nhở đối với những Người Việt đang là công dân của những nước có quan hệ đối với Việt Nam, hãy dùng tư cách công dân của mình ở những nước đó, thường xuyên lên tiếng nhắc nhở với Chính Quyền, Chính Khách, và Dư Luận rằng: Việt Nam dù đã hội nhập với thế giới, nhưng chính quyền ở đó vẫn là thứ “ngụy quyền” tiếm đoạt quyền lãnh đạo của Quốc Dân. Chúng đang dùng dân Việt Nam làm thứ “con tin” để yêu sách, trả giá với thế giới.

Nhân đây xin làm rõ thêm một vài vướng mắc trong sinh hoạt đấu tranh của Người Việtnam trong và ngoài nước. Những ngày gần đây rất nhiều bài viết, bài nói, lên án kẻ này là cò mồi cho cộng sản, người kia là cộng sản nằm vùng, hoặc là đấu tranh dân chủ cuội v.v..Làm chính trị có viễn kiến, thì đa nghi, đề phòng là điều không thể trách. Nhưng nếu lại rơi vào kế hoạch “tung hỏa mù” gây chia rẽ. làm nản lòng những người nhiệt tình đấu tranh là một việc làm bất trí, phi chính trị. Chúng ta đừng quên: Việt Nam đang trong giai đoạn đấu tranh chính trị tranh đòi tự do dân chủ, chứ không phải là hoàn cảnh lựa chọn gia nhập các lực lượng cách mạng để đoạt chính quyền, hay là phải bỏ phiếu lựa chọn những người đại diện của mình trong chính quyền. Chính vì vậy, mà chúng ta không những phải hoan nghênh, mà xin bằng cách này hay cách khác hỗ trợ cho những người dám công khai đứng lên đấu tranh đòi Tự Do Dân Chủ ở trong nước. Không phân biệt, không cần biết tới quá khứ của họ là gì, miễn là trong lời nói, việc làm của họ hiện tại, ngay bây giờ, quyết không nhận và chống lại chế độ độc tài, độc đảng, tham nhũng, toàn trị cộng sản.

Trong cuộc đấu tranh này, kẻ nguy hiểm nhất đối với Cộng Đảng là kẻ “Nội Thù”. Tức là chính “Cộng chống Cộng”. Kinh nghiệm dậy rằng: Chưa có một lực lượng nào từ ngoài vào lật đổ nổi chế cộng sản ở bất cứ nơi đâu, mà chỉ có những cuộc nổ tung trong nội bộ chế độ cộng sản mà ra. Liên Xô sụp đổ không chỉ do Gorbachev đổi mới, mà chính là nhờ bọn Cộng Sản cực đoan làm chính biến bất thành, đưa đến việc Gorbachev giải thể Cộng Đảng. Khối Cộng Đông Âu tan vỡ. Rồi Yeltsin Dân Chủ Hóa nước Nga. Tất cả bọn họ đều là lãnh tụ cộng đảng cả. Nếu Gorbachev đổi mới thành công thì Liên Bang Sô Viết lỏng lẻo và chế độ Cộng Sản Quốc Tế, cũng sẽ như Trung Cộng, Việt Cộng hiện nay: Cộng đảng vẫn lãnh đạo. Dù nội dung là tư bản, nhưng hình thức vẫn là cộng sản. Như vậy Thế Giới Cộng Sản vẫn hiện diện trên hoàn vũ. Tại Việt Nam hiện nay, may là có cuộc đấu tranh cho Tự Do Tôn Giáo dài hơi, chịu đựng gian khổ trên 31 năm, giờ đây đã làm xuất hiện những người, những đoàn thể chính trị công khai đấu tranh cho Dân Chủ, để Việt Cộng không thể một mình một chợ thao túng chính trường Việt Nam được nữa. Nhất là sự xuất hiện đó, đúng với đòi hỏi của các nước Dân Chủ trên thế giới. Đây là điều đáng được trân quý. Xin đừng vì một lý do nào, mà làm cho Cuộc Đấu Tranh Dân Chủ tại Việt Nam, vừa mới chớm nở đã bị nhận chìm. Không gì tốt hơn việc Cộng Sản chống Cộng Sản để Toàn Dân có cơ hội tiến lên xây dựng Tự Do Dân Chủ cho Việt Nam.

Little Saigon ngày 23-01-2007.

Lý Ðại Nguyên

Thấy rõ chủ trương của Hoa Kỳ hiện nay là quyết nhập nội Việt Nam cho bằng được, nên chính quyền Bush đã tích cực mở cửa để Việt Nam gia nhập WTO. Lưỡng viện Quốc Hội Mỹ vào phút cuối cùng của phiên họp hết nhiệm kỳ, đã không quên dành cho Việt Nam quy chế Thương Mại Bình Thường Vĩnh Viễn –PNTR-. Nhất là khi Tổng Thống Bush đến phó hội APEC tại Hànội, nhân dịp có mặt của Hồ Cẩm Ðào, Tầu và Putin, Nga là "chủ cũ" của Cộng Sản Việt Nam, cùng các Nguyên Thủ trong vùng Á Châu Thái Bình Dương, để xác nhận vai trò kinh tế, xác lập vị thế chiến lược mới của Mỹ tại Việt Nam. Tổng Thống Bush và Ngoại Trưởng Rice đã hào phóng đem tặng cho nhà cầm quyền Hànội món quà là: Rút tên Việt Nam khỏi danh sách các nước cần "quan tâm đặc biệt" về vấn đề Tự Do Tôn Giáo -CPC-. Ðiều đó đã làm cho các người tranh đấu cho Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam ngao ngán, các tổ chức Phi Chính Phủ - NGO- khắp thế giới phản đối. Trong khi, nhà cầm quyền Hànội chẳng những không cho tổ chức Hội Nghị Quốc Tế Dân Sự bên lề, quy tụ các tổ chức Xã Hội Dân Sự trong vùng, giống như thông lệ của APEC, mà lại xuống tay đàn áp, cô lập các người đấu tranh và các tổ chức đối lập Việt Nam, không để giới truyền thông và chính khách quốc tế gặp gỡ họ.
Với quán tính nô lệ cho các thế lực quốc tế, nhóm lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam cho là Mỹ đã chọn họ làm tay sai, nên bỏ rơi những nhà đòi hỏi Tự Do Tôn Giáo và những người đấu tranh cho Tự Do Dân Chủ Việt Nam, buộc ông Michael Marine, Ðại Sứ Mỹ tại Hanội, người thực thi chính sách Ngoại Giao của Hoa Kỳ tại Việt Nam, ngày 13/12/06, đã phải lên tiếng kêu gọi Ðảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam hãy mở rộng thêm không gian cho những người bất đồng quan điểm. Ông chính thức gọi thành viên của Khối 8406 là "những người yêu nước thực sự". Vì "Niềm tin của họ mạnh đến mức họ dám nói ra công khai. Tôi nghĩ họ là người yêu nước thực sự. Họ muốn điều tốt đẹp nhất cho Việt Nam". Ông nói thêm: "Sự phát triển của dân chủ, theo nhịp độ mà Việt Nam thấy sẵn sàng và người Việt Nam muốn là điều mà chúng tôi ủng hộ". "Tôi nghĩ sẽ có lợi cho Việt Nam thông qua việc cho phép có thêm tự do bày bỏ, tự do lập hội". Ông kết luận: "Ðể bất kỳ chính phủ nào được hoạt động tốt, người ta cần những công dân có khả năng biønh luận về chính sách và hành vi của chính phủ đó". Ngày 14/12/06, tại Hoa Thịnh Ðốn, Ngoại Trưởng Condoleezza Rice đã loan báo thành lập quỹ khẩn cấp 1 triệu USD, nhằm chi trả những tốn kém ngắn hạn cho những người chấp nhận nguy hiểm để bảo vệ Nhân Quyền tại các nước bị độc tài đàn áp. Ở đây, Ngoại Trưởng Rice tái xác định mục tiêu và mong đợi của Mỹ về cách đối xử của quốc tế với các tổ chức Ðối Lập đòi Dân Chủ và Nhân Quyền. Các tổ chức ngoài chính phủ - NGO –đó, cần phải được tự do hoạt động theo luật quốc tế.

Ðến đây cho thấy, Mỹ quyết trở lại Việt Nam lần này bằng bước đi vững chắc của đôi chân: Kinh Tế Thị Trường Hóa Toàn Cầu và Chính Trị Dân Chủ Hóa Việt Nam. Ðiểm đó đã nhận được sự đồng thuận, tích cực ủng hộ của các tổ chức và các nước cấp viện cho Việt Nam họp tại Hànội, là đã chỉ trích nặng nề nạn Tham Nhũng và vi phạm Nhân Quyền của chính phủ Hànội. Nhưng vào ngày 15/12/06, kết thúc hội nghị hàng năm của Nhóm Tư Vấn các nhà tài trợ, đã gia tăng viện trợ cho Việt Nam từ 3 tỷ 700 triệu USD của năm 2006, lên tới con số 4 tỷ 445 triệu USD cho năm 2007. Nhằm giúp Việt Nam phát triển kinh tế xóa đói giảm nghèo. Ðiều làm mọi người ngạc nhiên là việc loan báo tăng viện trợ lại được thực hiện sau khi đất nước này bị rúng động về vụ tham nhũng lớn PMU 18, trong lãnh vực xây dựng cơ bản, mà phần lớn là tiền tín dụng của ngoại quốc. Ngân Hàng Thế Giới –WB- đã mở cuộc điều tra riêng song song với cuộc điều tra của Nhà Nước Việt Nam, hiện chưa kết thúc. Dù vậy, WB năm nay hứa viện trợ cho Việt Nam 980 triệu USD. Ngân Hàng Phát triển Á Châu viện trợ gấp đôi năm trước với số hứa 1 tỷ 100 triệu USD. Liên Âu tăng đôi chút với con số 948 triệu USD. Nhật Bản là một nước cam kết viện trợ lớn nhất lên tới 890 triệu USD. Ông Klaus Rohland Giám Ðốc Quốc Gia của Ngân Hàng Thế Giới tại Việt Nam thay mặt các nhà tài trợ tỏ ý tán thưởng nỗ lực của Việt Nam trong việc cải thiện môi trường đầu tư, nhưng nói thêm rằng: "Việt Nam cần hiện đại hóa nền kinh tế để tiến xa hơn trong việc gia nhập Tổ Chức Thương Maị Thế Giới – WTO". Theo ông Rohland: "Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, thể chế và việc quản lý vốn viện trợ phát triển có hiệu quả hơn". Và "Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, thể chế và việc quản lý vốn viện trợ phát triển, đặc biệt là phải kiên quyết hơn trong công tác chống tham nhũng đối với việc sử dụng nguồn vốn ODA".

Ðúng là Mỹ đang sử dụng vốn đầu tư khổng lồ vào Việt Nam, các Tổ Chức và các nước Cấp Viện cho Việt Nam củng dùng tiền Viện Trợ của họ buộc Viiệt Nam phải thay đổi thể chế, pháp lý, chống tham nhũng, tôn trọng nhân quyền để từng bước Thị Trường Hóa Kinh Tế, Tự Do Hóa xã hội, Dân Chủ Hóa chế độ. Hiện nay theo sự điều tra của một cơ quan kinh tế độc lập có tên là Economist Intelligence Unit, vừa công bố báo cáo về Chỉ Số Dân Chủ 2006, được nghiên cứu trên toàn cầu thì Việt Nam đươc xếp vị trí 145/167 nước được khảo sát về tiønh hình Dân Chủ. Như vậy Việt Nam đang nằm trong nhóm chế độ độc tài, nếu muốn thoát ra khỏi Thân Phận Nước Nhược Tiểu thì phải gấp rút Dân Chủ Hóa chế độ. Việc đầu tiên là phải mở rộng không gian cho những người bất đồng quan điểm, chính kiến sinh hoạt, chấp nhận các tổ chức Ðối Lập công khai, với việc để cho Báo Chí, Truyền Thông Tư Nhân xuất hiện, góp sức quét sạch Quốc Nạn Tham Nhũng, huy động Tinh Thần Ðộc Lập Dân Tộc để Toàn Dân phát huy nội lực quốc gia, chủ động gia nhập tiến triønh Toàn Cầu Hóa. Ðừng để phát ngôn viên Ngoại Giao phản ứng chày cối về lời phát biểu của ông Ðại Sứ Mỹ tại Hànội. Rằng: "Những nhân vật đối lập trong nước bị công an bắt giữ vì họ vi phạm luật pháp Việt Nam, chứ không phải là những nhà ái quốc như cách diễn tả của ông Marine".Cả nhân loại đều hiểu thứ gọi là luật pháp của thế giới Cộng Sản là loại luật pháp áp đặt từ ý chí độc tài độc đoán của đảng, nhằm phục vụ đảng, bảo vệ quyền lãnh đạo tuyệt đối của đảng đối với toàn dân. Nó không nhằm bảo vệ quyền lợi phẩm giá của người dân. Nó đã nói thật rõ qua khẩu hiệu giáo điều của Cộng Ðảng Việt Nam là: Ðảng Lãnh Ðạo, Nhà Nước Quản Lý, Nhân Dân làm Chó. Ở đây không phải là viết sai chữ "Chủ thành Chó", mà chỉ muốn nói lên cho thật đúng với vai trò của người dân theo Cộng Ðảng chủ trương. Vì chỉ có loài chó mới tuyệt đối trung thành với người nuôi dậy của nó, dù có đánh đập, chửi mắng, tàn nhẫn, bỏ đói, thì nó vẫn trung thành với người đó. Hơn 60 năm nay Cộng Ðảng đối với Nhân Dân, mà họ gọi là "Chủ" đâu có khác giø đối với bầy chó mà họ đã thuần hóa. Nhưng nay thì Toàn Dân Việt Nam đã tỉnh thức, quyết đòi lại vị thế "Chủ Nhân" đích thực của mình, và đang được toàn thế giới tiếp tay. Nhà cầm quyền Hànội phải hiểu ra điều đó.

Little Saigon 19/12/2006.


MỸ CÓ THỂ ÐƯA VIỆT NAM
TRỞ LẠI DANH SÁCH CPC NGAY

Lý Ðại Nguyên

Tại Quốc Hội Hoa Kỳ ngày 22/12/2006, đã diễn ra cuộc điều trần về tình hình tự do tôn giáo trên thế giới, do dân biểu Christopher Smith, phó chủ tịch ủy ban quan hệ quốc tế của Hạ Viện chủ trì, có sự tham dự của ông Stephen Liston, giám đốc phòng Tự Do Tôn Giáo của bộ ngoại giao Hoa Kỳ và bà Felice Gear đứng đầu ủy ban Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế, một cơ quan độc lập có nhiệm vụ thẩm định tiønh hình tự do tư tưởng và tín ngưỡng trên thế giới. Theo bà Gear thì tuy Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ về tự do tôn giáo, nhưng vẫn chưa đủ để xứng đáng rút tên ra khỏi danh sách CPC ‘cần quan tậm đặc biệt’. Bà cho biết: "Theo sự thẩm định của ủy ban chúng tôi, những luật lệ mới về tôn giáo chưa được thực thi đầy đủ, và trong một số trường hợp, những luật lệ này lại được dùng để hạn chế và khống chế tự do của người dân, thay vì bảo vệ họ. Chúng tôi nghĩ rằng, việc giữ tên Việt Nam trong danh sách CPC sẽ chứng tỏ cho họ thấy rằng, mối quan tâm về nhân quyền vẫn là một trong những ưu tiên hàng đầu của Hoa Kỳ. Ðiều đó sẽ tiếp tục góp phần thúc đẩy chính phủ Việtnam giải quyết mối quan tâm của Hoa Kỳ".

Ông Stephen Liston cũng thừa nhận rằng, tình hình tôn giáo ở Việtnam chưa phải là hoàn hảo, nhưng Washington cũng cần phải có sự tưởng thưởng cho những nước đã có tiến bộ. Ông nói: "Việc loại tên Việtnam khỏi danh sách CPC, không có nghĩa là đã đạt được tất cả những mục tiêu về tự do tôn giáo. Tuy nhiên, chính phủ Việtnam đã giải quyết những vấn đề cốt lõi từng tạo ra những vụ vi phạm nghiêm trọng về tự do tôn giáo. Quyết định không giữ tên Việtnam trong danh sách CPC chính là tín hiệu quan trọng để cho mọi người thấy rằng , mục tiêu của chúng ta là cải thiện môi trường hành đạo của các tín đồ tôn giáo, và khi nào có tiến bộ thì chúng ta sẽ công nhận là có tiến bộ". Ðể trả lời dân biểu Chris Smith, chủ triø cuộc điều trần về câu hỏi: "Nếu Việtnam tiếp tục gây khó dễ cho người theo đạo, không hoàn tất những cam kết đã ký kết với Hoa Kỳ, thì bộ ngoại giao có liệt kê trở lại danh sách CPC không?". Ông Stephen Liston trả lời: "Luật cho phép ngoại trưởng làm điều đó. Việc bị nêu tên trở lại danh sách CPC có thể xẩy ra ngay, chứ không cần đợi tới hết năm 2007, nếu như có bằng chứng rõ rệt về tình trạng tôn giáo ở Việtnam bị đàn áp". Xem vậy, việc lấy tên ra hay để tên Việtnam vào danh sách CPC chỉ là một trong những áp lực giai đoạn của Mỹ, nhằm buộc nhà cầm quyền Cộng Sản Việtnam phải tôn trọng những cam kết đã ký với Mỹ. Ðây cũng là biện pháp đối trị với những thủ đoạn lươn lẹo, che chắn, dối trá của Việtcộng.

Trong khi truyền thông chính thức của cộng sản Việt Nam loan tin đã cấp giấy phép hoạt động cho 2 giáo hội Tin Lành là, Cơ Ðốc Phục Lâm, và Báp Tít Việtnam, được pháp luật bảo vệ mọi quyền lợi chính đáng, được chính quyền tạo điều kiện trong các sinh hoạt tôn giáo của tín đồ, trong các hoạt động khác như in ấn, xuất bản kinh sách, xây dựng sửa chữa nơi thờ tự hoặc hội thảo, bồi linh, hiệp nguyện, thì công an lại gia tăng đàn áp giáo hội Tin Lành Mennonite trong dịp lê Giáng Sinh này. Có nghĩa là nhóm tôn giáo nào ngoan ngoãn đứng xếp hàng dưới quyền lãnh đạo của đảng, chịu đứng trong tư thế hiệp hội thuộc Mặt Trận Tổ Quốc và tuân thủ Pháp Lệnh Tin Ngưỡng Tôn Giáo "xin cho" của nhà nước Cộng Sản thì sẽ được cho sinh hoạt hợp pháp. Còn những tôn giáo dân lập luôn luôn giữ tư thế độc lập với chính quyền thì hãy đợi đấy!

Thực ra những thứ gọi là Hiến Pháp, Luật Pháp của nhà nước Cộng Sản Việtnam đối với nguyên tắc "Quyền lực Quốc Gia thuộc về Ý Chí của Toàn Dân" thì những thứ ấy đều là phi pháp, cưỡng từ, đoạt lý, cướp quyền công dân một cách trắng trợn. Một loại Quốc Hội bù nhìn do "đảng cử dân bầu" tạo ra một bản Hiến Pháp 1992, ở Ðiều 4, trao quyền lãnh đạo tuyệt đối cho đảng Cộng Sản, mà không chịu bất cứ thứ trách nhiệm nào, không bị chế tài bởi cơ quan nào, không thông qua trưng cầu dân ý. Thế rồi những điều khoản quan trọng về dân quyền như Ðiều 69: "Công dân có quyền tự do ngôn luận báo chí, có quyền được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tiønh theo quy định của luật pháp". Mới nhìn thì đúng là hiến pháp tôn trọng dân quyền, nhưng nếu để ý tới câu thòng "theo quy định của luật pháp" thì thấy ngay Hiến Pháp đã nhường quyền quyết định tối hậu về những quyền nêu trên cho Luật Pháp. Như vậy Luật Pháp leo lên đầu Hiến Pháp. Chưa hết, luật được Quốc Hội biểu quyết, Chủ Tịch Nước ban hành, nhưng chưa có văn thư hướng dẫn của chính phủ thì cũng cứ nằm đợi đấy. Còn thủ tướng chính phủ phải chờ quyết định của Bộ Chính Trị có cho áp dụng không thì mới ban hành văn thư hướng dẫn. Như vậy rõ ràng Bộ Chính Trị ngồi trên Hiến Pháp, Luật Pháp và Chính Phủ. Một cơ chế quay vòng vòng như vậy thì quốc gia làm gì có Luật Lệ Công Khai Trong Sáng. Chính vì vậy mà Hòa Thượng Quảng Ðộ lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất dân lập đã đưa ra một nhận định chính xác là: "Pháp Nạn của Giáo Hội nằm trong Quốc Nạn của Dân Tộc. Chừng nào quốc nạn chấm dứt thì pháp nạn mới chấp dứt". Bởi vậy, với tư cách một Giáo Hội Dân Lập đã có Hai Ngàn Năm tồn tại trong lòng dân tộc, được tuyệt đại dân chúng tín ngưỡng thì mắc mờ gì phải vội vàng cúi đầu chấp nhận thứ Pháp Lệnh Xin Cho của Việt Cộng.

Ðúng ra các tôn giáo chân chính tồn tại hàng ngàn năm, đâu có đặt sự tồn tại của miønh ở nơi công nhận hay không của thế quyền, mà đặt ở sự tín ngưỡng của dân chúng. Chính vì dân chúng của toàn dân Âu Châu cùng tín ngưỡng Ðạo Thiên Chúa, nên Hoàng Ðế Constantine The Great của Ðế Quốc Lamã, năm 314 chính thức công nhận Thiên Chúa Giáo là Công Giáo của toàn Ðế Quốc. Chính vì vậy mà khi Hồi Giáo phát triển vào Âu Châu đã dẫn tới cuộc thánh chiến kéo dài mấy thế kỷ, đến nay thù oán vẫn cón bám riết 2 tôn giáo cùng thờ Chúa Trời này. Khi Thực Dân cai trị Việtnam họ cũng theo truyền thống Ðế Quốc Lamã, chỉ nhận Thiên Chúa Giáo là Công Giáo còn các tôn giáo khác kể cả Phật Giáo đều là Hiệp Hội. Bởi đấy, mới có cuộc đấu tranh "Biønh Ðẳng Tôn Giáo" ở Việtnam 1963. Năm 1964 các tôn giáo tại Việtnam Cộng Hòa đều được chế độ công nhận là các tôn giáo có tư cách pháp nhân. Do nạn kỳ thị tôn giáo mới đặt ra tính cách pháp lý đối với các tôn giáo, còn theo văn hóa sử nhân loại thì Giáo Quyền và Thế Quyền là hai nhu cầu không thể thiếu được của loài người, hai thứ quyền lực đó phải độc lập với nhau hỗ tương cho nhau để tạo ra cuộc sống người yên vui phát triển. Nếu Giáo Quyền khống chế Thế Quyền hay ngược lại thì xã hội sẽ loạn, lịch sử bế tắc. Chính vì nắm vững nguyên lý đó, nên Hoa Kỳ năm 1791 đã công bố Tu Chính Án Số I. Rằng: "Quốc Hội sẽ không được làm luật thành lập tổ chức tôn giáo, hoặc để cấm đoán quyền tự do tôn giáo; hay giới hạn quyền tự do ngôn luận, hoặc báo chí; hay quyền tụ họp của người dân một cách ôn hòa bất bạo động, và quyền thỉnh nguyên lên chính quyền để khiếu nại về những việc cần được chính quyền làm sáng tỏ". Những nước kết giao toàn diện với Mỹ, mà không hiểu biết về Tu Chính Án Số I này, thì sẽ gặp khó khăn dài dài với Quốc Hội và Dư Luận Mỹ.

Little Saigon 26/12/2006.

Nếu không có nhận thức TỰ TRỌNG NHÂN PHẨM của mình - TỰ DO DÂN CHỦ của mình - thì cái gọi là "lòng yêu nước, tính dân tộc" chỉ là cảm tính nông nổi và bầy đàn, nếu chưa nói là gian man

Thư Mục