Lý Đại Nguyên

Trước thảm cảnh thiên tai vừa mới xẩy ra ở Miến Điện, hầu như khắp các nước trên thế giới đều thực tâm muốn giúp cho nạn nhân ở đó, mau chóng vượt qua giai đoạn cực kỳ nguy hiểm: Cứu sinh mạng, cứu đói khổ, trị dịch bệnh, lập nơi tạm trú… Nhưng nhà cầm quyền quân phiệt, độc tài, tham nhũng của Miến Điện đã tàn nhẫn khước từ, chỉ nhận đồ cứu trợ, mà không cho các chuyên gia, thiện nguyện viên ngoại quốc vào giúp đỡ, khiến cho những người không đáng chết, phải chết oan. Ở đây thấy rõ một điều là chế độ độc tài không bao giờ biết thương dân, lo cho dân, mà chỉ sợ mất quyền hành. Tệ nhất là chúng coi thiên tai là cơ hội để chúng ăn chặn đồ cứu trợ của những nhà hảo tâm, và viện trợ của quốc tế. Liền sau đó là vụ động đất lớn tại Trung Hoa, tuy nhà cầm quyền Trungcộng vốn độc tài, nhưng đã mở cửa giao tiếp với thế giới bên ngoài, nên đã dễ dàng đón nhận sự trợ giúp từ nước ngoài. Như vậy, cho thấy, thiên tai xẩy ra bất cứ nơi nào trên địa cầu thì cũng là mối lo chung của nhân loại, các nước đều có nghĩa vụ thiêng liêng phải giải quyết. Chỉ có những chế độ độc tài cực đoan, tự cô lập mới để mặc cho dân chết, không nhận sự trợ giúp và không chịu giúp các nước khác khi bị thiên tai.

Do đó, vấn đề Dân Chủ Hóa chể độ ở mỗi quốc gia hiện nay là mối quan tâm hàng đầu của cả thế giới. Khi đặt vấn đề Dân Chủ Hóa Chế Độ, là đặt bổn phận trách nhiệm cho Nhà Đương Quyền phải thay đổi luật lệ từ độc tài chuyên chế đảng trị, hay độc tài cá nhân trị, gia tộc trị sang các luật lệ tự do dân chủ, để cho người dân có thực quyền: Tự Do Tư Hữu, cả về hai mặt tinh thần và tài sản. Tự Do Ngôn Luận, Tự Do Lập Hội và Tự Do Lựa Chọn. Từ đó tạo ra một Xã Hội Đa Nguyên Tự Do, một nền Kinh Tế Thị Trường Tự Do, một thể chế Chính Trị Dân Chủ Tự Do, được Điều Hợp theo Hiến Pháp Dân Chủ, với một hệ thống luật pháp minh bạch trong sáng tôn trọng Nhân Quyền, và được Điều Hành bởi những người do toàn dân lựa chọn. Việc đó, vừa mới được một vương quốc Bhutan nhỏ bé, nằm sâu trong dẫy Hy Mã Lạp Sơn thực hiện hết sức ngoạn mục. Quốc vương Jigme Singye Wangchuk, trước khi truyền ngôi cho con là vua Jigme Khesar Namgyal Vangchuk, Ngài đã trao hầu hết quyền hành pháp cho một Nội Các, và cho Quốc Hội được quyền đàn hạch Nhà Vua. Từ đó nước Bhutan bước vào sinh hoạt chính trị tự do đa đảng và phát triển kinh tế dựa trên phúc lợi của dân – Gross National Happiness - là chủ trương đổi mới của Thái Thượng Hoàng, và có sự đóng góp của ông Jigmi Thinley. Rồi với một cuộc bầu cử Dân Chủ trong sạch, đảng đối lập của ông Jigmi Thinley đại thắng. Quốc vương vẫn là Tổng Tư Lệnh quân đội và được chỉ định 5 vị trong Thượng Viện. Bhutan từ một nước Phong Kiến lạc hậu buớc vào chế độ Dân Chủ trong sáng là nhờ công của những nhà Lãnh Đạo biết nhìn xa trông rộng, luôn luôn đặt quyền lợi của dân lên trên quyền vị cá nhân mình, nên được người dân muôn đời kính trọng, biết ơn, thế giới ngưỡng mộ, mà uy quyền hiện nay vẫn không mất.

Nhìn về Việtnam, thấy mà buồn, nhà cầm quyền Việtcộng hiện nay, thà mất dân, mất nước, mất chủ quyền vào tay ngoại bang, chứ không chịu sớm Dân Chủ Hóa chế độ, để trao quyền lại cho toàn dân, để dân làm chủ nước, nước có chủ quyền thực sự, để chủ động gia nhập tiến trình toàn cầu hóa với sự tôn trọng của cả thế giới. Thực sự thì cái gọi là chủ nghĩa cộng sản, hay xã hội chủ nghĩa, nó đã bị biến thái thành thứ “Tư Bản Man Rợ,” ngay từ khi Việtcộng buộc phải mở cửa chạy theo Kinh Tế Thị Trường, nhận vốn đầu tư và làm ăn với ngọai quốc. Nó man rợ, vì đảng vừa độc quyền chính trị tham nhũng, vừa tạo ra các công ty quốc doanh, dùng vốn của quốc dân, độc quyền làm kinh tế, thu lợi vào tay đảng, chia lợi nhuận cho nhau theo ngôi thứ quyền lực, biến các lãnh tụ đảng thành các tay tài phiệt khổng lồ. Rồi hợp thức hóa những tài sản đen tối đó dưới chiêu bài cho đảng viên là kinh tế Tư Doanh. Nghĩa là đảng mặc nhiên công nhận quyền Tư Hữu của đảng viên, nhưng toàn dân vẫn bị nằm trong Cơ Chế Công Hữu do nhà nước quản lý. Do đó, kẻ có quyền thế mới tha hồ nhân danh luật lệ công hữu để chiếm đoạt đất đai, tài sản của dân làm của riêng. Cảnh Dân Oan khiếu kiện tràn ngập khắp nơi, mà không có lối giải quyết là vì thế.

Khi đảng đã cho đảng viên làm kinh tế tư doanh, thì sớm muộn gì nhà nước Việtcộng cũng phải ban hành đạo luật công nhận quyền Tư Hữu của mỗi công dân, thế mới hợp pháp hóa được tài sản tư hữu bẩn thỉu của đảng viên. Đây cũng là cái gốc của nền Kinh Tế Thị Trường thực sự, chứ không thể lấp liếm trong khẩu hiệu “Kinh Tế Thị Trường theo Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa” được mãi, khi đảng viên đã từ bỏ chủ nghĩa xả hội chết tiệt rồi. Như vậy, vì quyền lợi thiết thân của Việtcộng, vì nhu cầu của thị trường, vì đòi hỏi của quốc tế, nền Kinh Tế Thị Trường Tự Do cũng đã và đang thành hình tại Việtnam không thể cưỡng lại. Mà Kinh Tế Thị Trường Tự Do tất nhiên sẽ kéo theo Xã Hội Đa Nguyên Tự Do. Bởi vậy Việtcộng mới tìm mọi cách tránh né, không chịu cho ra đời những đạo luật công nhận sự hình thành và sinh họat tự do của các Tổ Chức Xã Hội Dân Sự. Mặc dầu chúng đã ký vào các Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Dân Sự và Chính Trị 1966. Công Ước Quốc Tế Về Những Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa 1966. Ngay trong lời mở đầu của 2 công ước căn bản này đã ghi: “Xét rằng, nghĩa vụ của quốc gia hội viên theo Hiến Chương Liên Hiệp Quốc là phát huy sự tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và quyền tự do của con người.”

Ấy thế mà Việtcộng đã nhân danh Việtnam để gia nhập LHQ, ký vào các Công Ước Quốc Tế, làm thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An, và triển vọng trở thành Chủ Tịch Đại Hội Đồng LHQ, mà vẫn không tôn trọng Nhân Quyền của dân mình. Vẫn không ban hành các đạo luật thành lập và sinh hoạt cho các tổ chức Xã Hội Dân Sự, mà lại cho ra đời những luật lệ phản động như “Pháp Lệnh Tín Ngưỡng Tôn Giáo” bắt các Tôn Giáo muốn được sinh hoạt công khai phải đặt dưới sự quản trị của Mặt Trận Tổ Quốc, một tổ chức ngoại vi của đảng Việtcộng. Theo nhận định của Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ thì chính quyền Việtnam “đã đặt ra những luật lệ, nhằm giới hạn hoạt động của các tôn giáo.” Tất cả các cơ quan Truyền Thông Báo Chí đều là của đảng. Do đảng viên trực tiếp điều hành. Chính vì vậy mà bọn tham nhũng có quyền thể tha hồ lộng hành. Một thể chế Dân Chủ thực sự không thể thiếu được một nền Truyền Thông Báo Chí Tư Nhân Tự Do. Đối với thực trạng Việtnam hiện nay thì Lộ Đồ Dân Chủ Hóa phải bắt đầu bằng việc hủy bỏ những đạo luật khống chế Tôn Giáo, độc quyền Truyền Thông. Ban hành các luật lệ Tự Do Tư Hữu về tư tưởng và tài sản của mỗi công dân. Ban hành các luật lệ về quyền tự do dân sự và chính trị, để cho các tập thể Xã Hội Dân Sự, các Chính Đảng công khai sinh hoạt, thúc đẩy tiến trình Dân Chủ Hoá Chế Độ, đi từ thay đổi Hiến Pháp độc tài sang dân chủ, và các luật lệ từ khống chế, khủng bố sang bảo vệ nhân quyền, để người dân thực hiện quyền tự do phát biểu ý kiến và tự do lựa chọn những đại biểu của mình trong các cơ quan Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp của Quốc Gia, và các chính quyền địa phương, nhất là cần thực hiện một nền Dân Chủ Trực Tiếp tại Làng Xã vốn là cơ sở hành chánh gốc của Truyền Thống Dân Chủ Dân Tộc.

Little Saigon ngày 20-05-2008.

Lý Đại Nguyên

Việc nhà báo Nguyễn Văn Hải sinh năm 1975 của tờ Tuổi Trẻ và phóng viên Nguyễn Việt Chiến sinh năm 1952 của báo Thanh Niên, bị cơ quan An Ninh điều tra Bộ Công An khởi tố bắt giam chiều 12/05/2008 vì tội đưa tin về vụ tham nhũng PMU18. Rồi tới phiên cựu thiếu tướng Phạm Xuân Quắc sinh năm 1946, nguyên cục trưởng Cảnh Sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội - C14, từng cầm đầu điều tra truy tố vụ án tham nhũng PMU18, cùng Đinh Văn Huynh sinh năm 1958 nguyên trưởng phòng 9, cục C14 vừa bị cơ quan An Ninh bộ Công An khởi tố, điều tra tội lợi dụng chức quyền trong khi thi hành công vụ. Vào ngày 25/03/08, cựu thứ trưởng bộ Giao Thông Vận Tải, Nguyển Việt Tiến, trong vụ án tham nhũng PMU18, sau 2 năm điều tra đã được phó viện trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao Việtcộng, Hoàng Nghĩa Mai tuyên bố là cơ quan công tố đình chỉ điều tra hai tội danh đã khởi tố, miễn trách nhiệm hình sự với tội danh còn lại và đề nghị khôi phục quyền lợi chức vụ cho Nguyễn Việt Tiến.

Diễn tiến của vụ án Nguyễn Việt Tiến; Tháng 4-2006, Tiến bị bắt và truy tố về vụ án tham nhũng PMU18. Tháng 7- 2006, một thiếu tướng công an bị ngưng chức trưởng cơ quan Cảnh Sát Điều Tra, vì tình nghi liên quan tới đường dây chạy án vụ PMU18. Mười tháng sau viên tướng này được tuyên bố vô can. Tháng 8-2006, Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao gia hạn tạm giam Nguyễn Việt Tiến kéo dài 4 tháng. Tháng 11-2006, gia hạn lần thứ 2 kéo dài đến tháng 4-2007. Tháng 4-2007 thêm tội danh “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, hình phạt có thể từ 3 tới 12 năm tù. Tháng 10-2007, được tại ngoại hầu tra. Trong giai đoạn này Bộ Công An khẳng định đủ căn cứ truy tố Nguyễn Việt Tiến. Nhưng bỗng đánh đùng một cái, ngày 25-03-2008, Nguyễn Việt Tiến được nhìn nhận vô tội. Theo Hoàng Nghĩa Mai đề cập trong bản tin Báo Pháp Luật khi đưa ra quyết định rằng: “Rõ ràng thời điểm ấy -2006- ở Bộ Giao Thông Vận Tải, Nguyễn Việt Tiến đang là ngôi sao sáng. Và nếu con đường phát triển thuận lợi thì Nguyễn Việt Tiến không phải là Nguyễn Việt Tiến bây giờ, mà phải là một cái gì khác hơn nữa. Trong bối cảnh như vậy, chắc là cơ quan điều tra đã khởi tố điều tra với ông Tìến vừa có cả vấn đề pháp lý, vừa có cả vấn đề dư luận”. “…vào thời điểm ấy, các vụ đánh bạc lên đến cả triệu rưỡi đô la của Bùi Tiến Dũng, những đường giây chạy án và hàng loạt vấn đề bùng nhùng, khiến cho dư luận nhìn vào chỗ ấy là đen tối”.

Ở điểm này, Việtcộng đã đổ lỗi cho làng báo của chúng gây ra, cho nên hai phóng viên Nguyễn Văn Hải và Nguyễn Việt Chiến mới bị lôi ra hành tội. Nhưng báo giới Việtnam đều nằm trong tay đảng, không có lệnh đảng thì nhử kẹo, phóng viên, và nhà báo cũng không dám khai thác vụ Nguyễn Việt Tiến. Chính vì vậy mà lên án 2 ký giả là thiếu trách nhiệm nghề nghiệp, tiết lộ nguồn cung cấp thông tin là không đúng trong hoàn cảnh báo chí Việtcộng. Họ đâu có quyền tự do chủ động bới móc Nguyễn Việt Tiến, mà phải có lệnh từ giới chức thẩm quyền. Do đó cựu thiếu tướng Cục Trưởng Cảnh Sát Điểu Tra, và nguyên Trưởng Phòng 9 cục C 14, mới bị 2 nhà báo khai ra là người cung cấp thông tin. Nhưng hai viên chức cảnh sát này cũng không dám tự chuyên, nếu không được lệnh từ cấp cao hơn. Vì Nguyễn Việt Tiến lúc đó là một ngôi sao sáng đang lên, vốn là người thân của TBT Nông Đức Mạnh, có tên trong danh sách đề nghị làm Ủy viên Trung Ương khóa X. Trong cuộc đấu đá tranh giành quyền lực trước Đại Hội Đảng, Nguyễn Việt Tiến bị làm vật tế thần là điều dễ hiểu.

Sau Đại Hội X và tới Hội Nghị lần thứ 3 của Ban Chấp Hành Trung Ương cộng đảng về tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng lãng phí và việc thành lập Ban Chỉ Đạo Phòng Chống Tham Nhũng, gồm cả Đảng, Nhà Nuớc và các cơ quan liên hệ, do Ủy Viên Bộ Chính Trị, Thủ Tướng, Nguyễn Tấn Dũng đứng đầu, Ủy Viên Bộ Chính Trị, Phó Thủ Tướng, Trương Vĩnh Trọng đứng phó, Có một lúc những hoạt động chống tham nhũng là công tác hàng đầu của Nội Các Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng việc chống tham nhũng đồng nghĩa với chống đảng. vì đảng cộng sản, và cơ chế cầm quyền do đảng tạo ra, nó là một hệ thống tham nhũng khổng lồ. Diệt tham nhũng là diệt đảng, và diệt ngay quyền lợi của kẻ cầm quyền. Thế là cộng đảng đã đẩy Nguyễn Tấn Dũng và nhóm được gọi là “đổi mới” vào tử địa. Muốn tồn tại thì phải quay lại thuần phục phe “thủ cựu” được Trungcộng hậu thuẫn.

Nhóm thủ cựu thân Trungcộng, cầm đầu bởi 2 tên MA già là Đỗ Mười và Lê Đức Anh, tuy trên danh nghĩa không còn quyền hành gì trong đảng và nhà nước, nhưng lại là một thế lực được Trungcộng hỗ trợ trực tiếp, nhờ thế đã tạo ra được các tay em rất trung thành là Nông Đức Mạnh đang nắm chức Tổng Bí Thư Đảng vốn có quyền hành cao nhất. Kế đến là Nguyễn Phú Trọng, ủy viên BCT, chủ tịch Quốc Hội. Nguyễn Sinh Hùng, ủy viên BCT, phó thủ tướng thường trực. Hồ Việt Đức, ủy viên BCT, trưởng ban tổ chức trung ương. Tô Huy Rứa, ủy viên trung ương, trưởng ban tuyên giáo. Những kẻ này thường xuyên chăm chỉ đi Bắc Kinh để nhận chỉ thị của Trungcộng. Kẻ có quyền lực nhất trong bộ Công An là Nguyễn Khánh Toàn, ủy viên trung ương, thứ trưởng thường trực Bộ Công An, phó bí thư đảng ủy ngành Công An, vợ của y từng hợp tác mật thiết với vợ của cựu Ủy Viên BCT, trưởng ban tổ chức đảng, Trần Đình Hoan để thăng chức cho các tướng, tá ngành công an. Chính nhờ vậy mà Trương Hòa Bình một kẻ chẳng ra gì mới lên tới chức thứ trưởng công an, coi ngành cảnh sát toàn quốc, cuối cùng được Nguyễn Khánh Toàn vận động cho làm chức Chánh Án Tòa Án Nhân Dân Tối Cao. Thế mới có việc xóa án tham nhũng cho Nguyễn Việt Tiến, người của nhóm MA, đầy tớ Trungcộng, một cách nhẹ nhàng, để rồi phản kích lại những người chống tham nhũng.

Việc Việtcộng lệ thuộc Trungcộng, đã bắt đầu ngay từ năm 1930, khi Hồ Chí Minh nhận lệnh Quốc Tế Cộng Sản để thành lập đãng Cộng Sản Đông Dương tại Hoa Nam. Cụ thể là chính Hồ Chí Minh đã tuyên thệ gia nhập đảng Cộng Sản Trung Hoa tại căn cứ Diên An. Đến năm 1950, Stalin buộc Hồ Chí Minh phải nghe lệnh Mao Trạch Đông thực hiện cuộc cải cách ruộng đất. Chỉ đến sau năm 1975, Việtcộng chiếm được toàn cõi Việtnam, Lê Duẩn theo Liên Xô chống Trungcộng thì việc thống thuộc Trungcộng mới bị gián đoạn. Nhưng khi Liên Xô sụp đổ thì Trungcộng đã đưa tay ra nắm lấy Việtcộng. Cuộc gặp mặt giữa Đặng Tìểu Bình, Giang Trạch Dân, Lý Bằng với Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười vào ngày 03/09/1990 tại Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên, Trung Hoa đã nối lại quan hệ thầy trò giữa Trungcộng với Việtcộng. Đỗ Mười là kẻ đại diện trung thành cho tinh thần thuộc Tầu đến hôm nay. Còn Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh, và Việtcộng còn thờ thần tượng Hồ Chí Minh thì Trungcộng vẫn còn là thầy của Việtcộng, và Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi sự khống chế của Trungcộng, dù cho Hoakỳ có trở thành nước đầu tư lớn nhất tại Việtnam cũng vậy. Không biết người Việt ta có cảm thấy nhục không? Khi hàng ngàn thanh niên Trung Hoa cầm cờ đỏ 5 sao vàng của Trungcộng nhảy múa, hò hát, ngang tàng giữa lòng Sàigòn, như trên đất của họ, trong cuộc rước đuốc Thế Vận Bắc Kinh vừa qua.

Little Saigon ngày 13-05-2008.

Lý Đại Nguyên

Tại phiên họp thứ 54 của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ngày 15-12-1999, LHQ đã chính thức công nhận và tổ chức đại lễ Phật Đản. Ngày này còn được gọi là đại lễ Tam Hợp Vesak, nhằm kỷ niệm ngày Đức Phật đản sinh, thành đạo, niết bàn, được tổ chức chung vào một ngày trong tháng 5 dương lịch hằng năm. Đại lễ Vesak LHQ đầu tiên được long trọng cử hành vào năm 2000 tại trụ sở LHQ ở New York, với sự tham gia của các tông phái Phật giáo thuộc 34 quốc gia. Trong Thông Điệp Phật Đản 2552 - 2008 của Đức Đệ IV Tăng Thống Thích Huyền Quang đã viết:

“Tám năm qua, Phật Đản không còn riêng cho Phật giáo đồ, mà trở thành Ngày Tâm Linh, Ngày Văn Hóa cho toàn thể nhân loại, theo sự công nhận của gần hai trăm quốc gia thành viên LHQ. Sự tôn vinh đức Phật nở rộ qua những thông điệp hằng năm của LHQ nói lên điều cao cả của Phật giao”: “Thông điệp của Đức Phật là thông điệp về Hòa Bình và Từ Bi. Nhưng cũng là thông điệp của sự Tỉnh Thức, tức là quán chiếu bản thân và hành động của mình, đồng thời quán chiếu thế giới. Đây là thông điệp cho những ai quan tâm đến hướng đi và vận mệnh của loài người” (Thông điệp LHQ 2003) .

“Dù với nguồn gốc, chủng tộc, văn hóa hay tín ngưỡng nào, chúng ta nên nhớ là chúng ta có một quê hương chung, đó là hành tinh trơ trọi, nhỏ bé, là nơi chúng ta gắn bó và chung sống. Nên chúng ta hãy cùng nhau góp sức đem lại lợi ích chung cho cuộc sống hòa điệu và hòa binh giữa mọi sắc dân trên địa cầu” (Thông điệp LHQ 2005).

“Hơn 2500 năm qua, bậc Đạo sư Đại giác Thích Ca Mâu Ni vẫn tiếp tục làm kim chỉ nam, mang lại ý nghĩa cho hàng triệu con người trên trái đất. Hàng năm tổ chức đại lễ Phật Đản là cơ hội cho những người con Phật xác quyết niềm tin vào giáo pháp của Ngài, đồng thời phát huy tinh thần Từ Bi, Trí Tuệ và Hòa Bình mà đức Phật đã trao truyền”
(Thông Điệp LHQ 2007)

Phật đản là ngày sinh của Đấng Đại Giác, Ngày Tâm Linh, Ngày Văn Hóa của toàn thể nhân loại, thế mà năm nay, nhà cầm quyền Việtcộng độc tài, đảng trị, vốn bản chất là Độc Ác, Vô Thần, Phi Văn Hóa, chuyên môn đàn áp tôn giáo, coi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất dân lập, đang nắm giềng mối truyền thống của Đạo Pháp là kẻ thù của chế độ, lại hăm hở đăng cai tổ chức Đại Lễ Vesak LHQ, thì bắt buộc mọi người phải suy nghĩ thận trọng. Thực ra sau ngày Việtnam được Mỹ lấy tên ra khỏi danh sách CPC, rồi đưa vào WTO, thì Việtcộng đã lật mặt, xuống tay đàn áp đối lập, bách hại tôn giáo càng khốc liệt hơn trước, khiến cho Mỹ phải xấu hổ, dư luận thế giới không ngừng chỉ trích. Việtcộng phải chữa cháy, bằng cách chứng minh với thế giới là Việtnam có tự do tôn giáo, qua việc đứng ra đăng cai tổ chức Đại Lễ Vesak LHQ. Đồng thời đề cao tổ chức Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam quốc doanh đảng lập lên tầm quốc tế, nhằm tiêu diệt Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất truyền thống dân lập, một tổ chức luôn luôn đòi Tự Do Tôn Giáo và Dân Chủ Nhân Quyền cho Việtnam.

Để làm được việc đó, thì phương pháp tuyên truyền, nhằm hạ uy tín, hay đàn áp đối với Giáo Hội Thống Nhât dân lập từ lâu nay của Việtcộng, chỉ làm tăng thêm tư thế của Giáo Hội này trên trường quốc tế và tín nhiệm với toàn dân trong và ngoài nước, chứ không hề suy giảm. Nên Việtcộng đã dùng tới “đạo quân thứ năm”, cầm đầu bởi “Nhóm Tứ Nhân Bang”, gồm 2 cựu tăng sĩ, vốn thuộc thành phần lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại là các ông Trí Không và Quảng Thành để vận động thành lập Tổ Chức Về Nguồn, nhẳm dùng số đông Tăng Sĩ tại hải ngoại qua cuộc bầu cử định kỳ của giáo hội, để nắm lấy cơ cấu Giáo Hội Hải Ngoại và Văn Phòng 2 VHĐ. Còn 2 cư sĩ cầm đầu một Tổ Chức Cư Sĩ Hải Ngoại là các ông Mật Nghiêm và Quảng Phước luôn luôn tổ chức những buổi thuyết pháp cho các Tăng Sĩ Quốc Doanh trong nước thuộc thành phần “Tuyên Giáo” ra khua môi, múa mép, nhằm thu hút cảm tình của bà con Phật Tử Hải Ngoại. Làm được vậy thì ngày Đại Lễ Phật Đản do Việtcộng tồ chức, dưới danh nghĩa LHQ, chư tăng, phật tử hải ngoại có thể hàng hàng lớp lớp hớn hở đổ về Việtnam hợp tác với Giáo Hội quốc doanh và nhà cầm quyền Việtcộng là điều phải đến. Trong khi đó, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại là hậu phương lớn cho cuộc đấu tranh Tự Do Tôn Giáo và Dân Chủ Nhân Quyền của Giáo Hội Mẹ ở quê nhà, một khi hậu phương đã đầu hàng thì tiền tuyến làm sao tồn tại nổi. Chính vì vậy mà Giáo Chỉ Số 9 của Đức Tăng Thống phải ban hành.

Thế là mục đích xóa sổ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất của Việtcộng bất thành, chúng đành phải quay sang trò khủng bố, đàn áp, làm cho dư luận thế giới tiếp tục lên án. Khiến, Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế của Hoa Kỳ, hôm 02/05/08, công bố phúc trình về tình hình tôn giáo trên toàn thế giới năm 2008, đã đề nghị Bộ Ngoại Giao Mỹ đưa Việtnam trở lại danh sách “các quốc gia cần quan tâm đặc biệt” CPC. Theo Ủy Ban này:

“Các tôn giáo trong năm rồi đã gặp nhiều khó khăn. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tiếp tục bị trù dập và bị lên án là một tổ chức chính trị. Các quyền tự do di chuyển, bầy tỏ ý kiến, hội họp vẫn bị giới hạn. Tăng ni và những người có liên hệ với GHPGVNTN bị công an thường xuyên sách nhiễu và điều tra lấy cung. 12 tu sĩ lãnh đạo của giáo hội vẫn còn bị đặt trong tình trạng quản chế”.

Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế của Hoa Kỳ đòi:

“Hànội trả tự do cho mọi tù nhân tôn giáo như: Đại lão hòa thượng Thích Huyền Quang, Đức Tăng Thống, Đại lão hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, Linh mục Nguyễn Văn Lý, Lm Phan Văn Lợi, tín đồ các đạo Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, các sư sãi Phật Giáo Khmer và các tù nhân lương tâm như Ls Nguyễn Văn Đài, Ls Lê Thị Công Nhân”.

Như thế, mục đích chứng tỏ với Thế Giới rằng, Việtnam có Tự Do Tôn Giáo, và xóa số GHPGVNTN của Việtcộng bất thành. Nên cho mãi tới ngày 25/04/08, Việtcộng vẫn không hào hứng giải ngân 30 tỷ đồng VN, góp cho ban tổ chức lễ Vesak. Còn sự đóng góp của đồng bào là con số không. Quả thật, Bọn Ma Vương cầm quyền, dù có khoác áo cà sa vần chỉ là Ma Vương. Vì Đạo Phật là Đạo Cứu Độ và Giải Thoát chứ không phải là Tôn Giáo Cầm Quyền Thống Trị.

Trong Thông Bạch Phật Đản 2552, hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng VHĐ đã nhắc:

“Đức Phật Thích Ca xuất hiện không phải là mục đích ngự trị thế gian, mà chính là để cứu giúp thế gian, đưa mọi loài chúng sinh ra khỏi ngôi nhà thế gian đang bừng cháy. Ngài dậy, ta vì đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời. Đại sự đó, chính là khai mở trí tuệ giác ngộ giải thoát cho hết thảy sinh loại ra khỏi vùng tham ái chấp thủ”.

Hòa thượng cũng bày tỏ ý kiến về Lễ Vesak do Việtcộng tổ chức:

“GHPGVNTN, trong hoàn cảnh đang bị Cộng San Việt Nam truy quét, bức tử, nên không tham dự, cũng không cử đại biểu tham dự, và tuyên cáo với nhà câm quyền VN, đảng Cộng Sản Việt Nam rằng: Cái gì của Phật Giáo hãy trả lại cho Phật Giáo”.

Nhân mùa Phật Đản năm nay, chúng ta hãy cùng nguyện cầu cho 3 Ngài: Huyển Quang, Quảng Độ, Thiện Hạnh và các vị lãnh đạo Giáo Hội Thống Nhất trong, ngoài nước, vững tay cheo lái con thuyền Giáo Hội trong cơn giông tố cộng sản. Cầu cho những người thân của chúng ta chẳng may bị lạc hướng, sớm hồi tâm, đừng để rơi vào vòng Nghị Quyết 36 của Việtcộng nhằm chia rẽ Giáo Hội Phật Giáo Hải Ngoại. Và cùng cầu cho tất cả chúng ta vững tâm bền chí đi trong ánh sáng Từ Bi, Trí Tuệ, Đại Nhẫn để đấu tranh cho Việtnam Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền thực sự.

Little Saigon ngày 06-05-2008.

Lý Đại Nguyên

Ngọn đuốc Thế Vận Hội vốn tượng trưng cho tinh thần hòa bình, công chính, đoàn kết, trong sáng giữa các dân tộc trong cộng đồng nhân loại, nhưng khi nó được trao vào tay Trung Cộng thì lập tức nó bị “chính trị hóa” để trở thành đàn áp, gian dối, bá quyền, tăm tối. Trungcộng đã dùng cơ hội rước đuốc thiêng Olympic để mở rộng vùng ảnh hưởng, đồng hóa Tây Tạng, chiếm lĩnh ngọn Everest, đỉnh cao nhất địa cầu, và mở rộng vòng thống trị xuống biển Đông Nam, trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà chúng đã chiếm đoạt của Việtnam. Dân Tây Tạng vùng lên đòi tự trị, Trungcộng thẳng tay tàn sát dã man, khiến cho toàn thề nhân loại phản ứng. Ngay khi ngọn lửa Thế Vận Hội 2008 vừa được châm lên từ núi Olympia thì đã bị những người bất bình xông ra định cướp khỏi tay bọn đồ tể Trungcộng. Từ đó ngọn lửa thiêng trở thành ngọn lửa ngục tù, trong sự canh phòng nghiêm ngặt của quỷ sứ, đi đến đâu cũng bị chống đối, lên án, giống như số phận của các lãnh tụ Việtcộng, toàn bị trốn tránh khi phải đối diện với thế giới văn minh. Những tiếng nói theo lương tâm nhân loại đều cất lên, kêu gọi các lãnh tụ chính quyền thế giới tẩy chay lễ khai mạc Thế Vận Hội Bắc Kinh 2008, và đã được nhiều lãnh tụ các nước Âu Chân công khai hưởng ứng.

Riêng tổng thống Bush của siêu cường Hoakỳ thì muốn dùng cơ hội này để làm thứ đòn bẩy, khiến Trungcộng phải tôn trọng nhân quyền và quyền tự trị của Dân Tộc Tây Tạng. Phó bộ trưởng Ngoại Giao Mỹ, John Nergroponte, nhân vật chỉ đạo về Á Châu của Bộ Ngoại Giao Mỹ, trong khi ngoại trưởng Condoleeza Rice bận rộn về Trung Đông, ngày 23/04/08 đã phát biểu trong cuộc điều trần tại Thượng Viện Mỹ. Ông bày tỏ mối quan ngại của chính phủ Mỹ về việc giới hữu trách Trungcộng không ngớt tung ra những lời công kích vào đức Dalai Lama. Nhân đó ông hối thúc Trungcộng phải thảo luận với đức Dalai Lama. Ông nói; “Nếu Bắc Kinh không chủ động giao tiếp với Đức Đạt Lai Lạt Ma ngay lúc này thì đó chỉ làm gia tăng sức mạnh của những người cổ xướng cho những quan điểm cực đoan. Việc thực hiện chiến dịch bôi nhọ Đức Đạt Lai Lạt Ma trong công chúng sẽ không giúp ích gì cho việc xoa dịu tình hình căng thẳng hiện nay”. Ông tiếp: “Người Tây Tạng có những nỗi bất bình chính đáng, phát xuất từ nhiều năm bị đàn áp, và từ những chính sách của Trung Quốc gây ra những tác động tiêu cực đối với đời sống văn hóa và sinh kế của họ. Một nước Trung Quốc mà ảnh hưởng mỗi ngày một lớn có trách nhiệm phải bảo vệ và tôn trọng các quyền của khối dân thiểu số.”

Ngày 25/04/08, Chính phủ Trungcộng cho biết sẽ gặp đại diện của đức Dalai Lama. Về phần đức Dalai Lama, Ngài nói rằng: “Hoan nghênh đề nghị của Trung Quốc mở lại các cuộc thảo luận với các đặc sứ của Tây Tạng, nếu các cuộc hội đàm này nghiêm túc”. Cùng ngày hôm 26/04/08, thủ tướng chính phủ Tây Tạng lưu vong, ông Shamdhong Rinpoche tuyên bố: “Chính phủ Tây Tạng đã duy trì các cuộc tiếp xúc với Trung Quốc suốt thời gian diễn ra các cuộc biểu tình phản đối.” Nhưng ông thêm rằng: “Việc tái tục các cuộc thảo luận chính thức chỉ có thể thực hiện khi nào tình hình các khu vực của người Tây Tạng tại Trung Quốc trở lại bình thường”. Trước đó, ngày 16//04/08, Hồ Cẩm Đào, chủ tịch Trungcộng cũng nói: “Chính phủ Trung Quốc sẵn sàng tỗ chức các cuộc đối thoại với đại diện của chính phủ lưu vong Tây Tạng do ngài Đạt Lai Lạt Ma đứng đầu vào bất cứ lúc nào.” Tuy nhiên họ Hồ nhấn mạnh; “Nhà nưóc Trung Quốc không thể chấp nhận bất cứ đề nghị nào liên quan đến nỗ lực đòi độc lập của Tây Tạng.” Thực tế thì từ trước tới giờ, đức Đạt Lai Lạt Ma không hề đòi độc lập, mà chỉ đòi Tây Tạng đưọc tự trị rộng rãi để duy trì tinh thần dân tộc và tôn giáo của mình. Thế nhưng Trungcộng vẫn gán cho Ngài là đứng sau lưng phong trào đòi độc lập Tây Tạng, rồi khích động tinh thần Đế Quốc nơi dân chúng Trung Hoa chống lại Ngài, để dễ bề đồng hóa Tây Tạng. Chính vì vậy mà dư luận thế giới không dám tin vào thiện chí của Trungcộng, và chỉ coi đó lả thủ thuật chính trị, nhằm làm nhẹ áp lực của quốc tế lên Thế Vận Hội Bắc Kinh mà thôi.

Hai ngày 23/24/04/08, bộ trưởng Ngoại Giao Trungcộng, Dương Khiết Trì viếng thăm Việtnam, gặp người đồng nhiệm Việtcộng là Phạm Gia Khiêm, cũng như Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng, và Nông Đức Mạnh, tổng bí thư cộng đảng, để đàm phán về 2 vấn đề biên giới và công tác tổ chức Olympic Bắc Kinh 2008. Sở dĩ Trungcộng phải cho Ngoại Trưởng sang đàm phán với Hànội, vì việc giới trẻ và toàn dân Việtnam đang còn sôi sục chống Trungcộng về vụ họ cho thành lập cơ cấu hành chánh Tam Sa hồi tháng 12/07, để quản lý các đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việtnam. Đồng thời trong bản đồ lộ trình rước đuốc Thế Vận Hội Bắc Kinh, Trungcộng cũng cố ý tô đậm Hoàng Sa thuộc lãnh thổ Trung Hoa, khiến cho việc chống đối cuộc rước đuốc vào Sàigòn trở thành gánh nặng cho đàn em Việtcộng. Chính nhờ tinh thần quyết liệt chống Trungcộng của dân Việtnam, và cũng do áp lực của quốc tế, mà chỉ một hôm trước ngày ngọn đuốc tới Sàigon, bản đồ lộ trình rước đuốc mà Trungcộng công bố trên Website của Olympic Bắc Kinh đã có một số thay đổi. Chặng đường qua đảo Hải Nam nay đã xóa đi quần đảo Hoàng Sa. Hình phụ lục ghi chi tiết đường rước đuốc nội địa của Trungcộng cũng bỏ đi các chấm biểu lộ ranh giới biển mà trước đây chiếm tới 75% vùng Biển Đông.

Đây là một vấn đề có tính chiến lược, vì từ trước tới nay Trungcộng không hề che dấu ý đồ nuốt trọn Biển Đông. Nhưng, nếu không có thực lực mà lại dùng nó vào việc tuyên truyền, nhằm đề cao tinh thần Đế Quốc Bành Trướng của người Trung Hoa, thì chỉ tổ làm cho thiên hạ ghét mà đề phòng. Nay đến lúc Trungcộng đi vào thực tế, xây dựng thực lực, nên tạm thời xóa đi những dấu chấm ranh giới trên bản đồ, mà tiến tới cụ thể xây căn cứ. Theo tạp chí chuyên về tin tức quốc phòng, Jan’s Defence, trích nguồn tin tình báo nói rằng, Trungcộng đang xây dựng một căn cứ cho tầu ngầm hạt nhân ở Tam Á, nhằm kiểm soát vùng biển Nam Trung Hoa. Trungcộng không hề giải thích trước công luận về công trình xây dựng, mở rộng ở căn cứ trên đảo Hải Nam, cũng như ở Hoàng Sa và Trường Sa. Thế nhưng khi Việtnam phóng vệ tinh VINASAT-1, do Mỹ chế tạo, thì Trungcộng kịch liệt phản đối, vì sợ rằng, Hoakỳ cài dụng cụ tình báo để kiểm soát hoạt động của Trungcộng. Thực ra thì Mỹ đâu có cần tới VINASAT-1 của Việtnam, vì vệ tinh do thám của Mỹ đã dầy đặc trên đầu Trungcộng rồi. Quốc tế đều thấy rõ Hoàng Sa. Trường Sa của Việtnam nay đã trở thành căn cứ nguyên tử của Trungcộng, trực tiếp đe dọa, an ninh của Việtnam và các nước quanh vùng. Thế mà Việtcộng cứ cúi đầu bám đít Trungcộng, đàn áp những người yêu nước để làm vui lòng quan thầy trong cuộc rước đuốc, các nước ASEAN vẫn giữ thái độ “cháy nhà hàng xóm, bình chân như vại” thì không hiểu giới lãnh đạo Việtcộng và khối ASEAN trí khôn họ để nơi nào?

Little Saigon ngày 29-04-2008

Nếu không có nhận thức TỰ TRỌNG NHÂN PHẨM của mình - TỰ DO DÂN CHỦ của mình - thì cái gọi là "lòng yêu nước, tính dân tộc" chỉ là cảm tính nông nổi và bầy đàn, nếu chưa nói là gian man

Thư Mục