Lý Đại Nguyên
Nguyễn Tấn Dũng thủ tướng CSVN dựa theo thông báo 41 của Bộ Chính Tri ngày 11/10/2006, về các biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí, đã ra chỉ thị số 37, ngày 29/11/2006, được đăng trên trang nhà của chính phủ, rằng: “Việt Nam sẽ không cho phép thực hiện công cuộc tư nhân hóa truyền thông dưới bất cứ hình thức nào, và sẽ không để ai lợi dụng báo chí để phục vụ lợi ích riêng tư, gây phương hại cho lợi ích nhà nước”. Dũng yêu cầu các cơ quan chính phủ tăng cường nỗ lực nhằm kiểm tra hoạt động của nhật báo, tạp chí, đài truyền hình và địa điểm internet và trừng phạt những người vi phạm pháp luật. Những năm gần đây tuy Việt Nam đã tư nhân hóa nhiều công ty quốc doanh, nhưng chính phủ vẫn tiếp tục nắm quyền kiểm soát các phương tiện truyền thông, gồm trên năm trăm tờ báo và gần chục ngàn ký giả.
Có một lực lượng báo chí khổng lồ trong tay, mà Cộng Đảng lại tỏ ra sợ hãi không dám cho tư nhân ra báo thì đủ biết Cộng Đảng thực sự rất sợ Tự Do Ngôn Luận, và không còn dám tin vào sự trung thành của các tờ báo của đảng nữa. Nhưng thử hỏi cộng sản còn đủ sức khống chế được dư luận bao lâu? Khi nguồn thông tin tự do theo gót của các đại công ty nước ngoài ào ạt đổ vào Việt Nam. Với việc, Nguyễn Tấn Dũng sớm mở cửa cho doanh nhân ngoại quốc đầu tư vào các ngành dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, bán lẻ, viễn thông tai Việt Nam. Đối với doanh nhân ngoại quốc thì mọi dịch vụ phải được bảo đảm bởi luật lệ trong sáng, và tự do thông tin, minh bạch, nhằm tao ra môi trường cạnh tranh công bằng. Nhất là các công ty sản xuất Computer đã lấy Việt Nam làm cứ địa phái triển thị trường điện toán cho toàn vùng. Chắc chắn số người sử dụng phương tiện thông tin kỹ thuật cao và rẻ này sẽ tràn ngập Việt Nam ở ngày tới, nhất là trong giới trẻ. Lúc đó các luồng xa lộ thông tin Việt Ngữ trong, ngoài nước giao thoa với nhau, từng giây, từng phút, không còn bị giới hạn bởi các địa điểm internet như hiện nay. Những tư tưởng Tự Do Dân Chủ, các phương pháp ứng xử khoa học và sinh hoạt năng động tiên tiến của thị trường tự do sẽ được chiếu rọi vào thực tại sinh hoạt Việt Nam, tao ra sự so sánh giữa lê thói độc tài thủ cựu ngây ngô, trước trào lưu thăng hóa rực rỡ của loài người, hẳn nhiên toàn dân và giới trẻ có nhu cầu tự do phát triển toàn diện, vượt bỏ thứ cộng sản biến chất thành tư bản man rợ, muốn nắm độc quyền chính trị.
Thật đáng buồn cho giới lãnh đạo tương đối trẻ của cộng đảng hiện nay, họ vẫn chưa trở thành những nhà chính trị có viễn kiến. Nếu chỉ với một chút viễn kiến trung bình thôi thì họ đã thấy rằng: Khi Việt Nam vào WTO thì không chỉ về mặt kinh tế, Việt Nam phải chuẩn bị cho các doanh nhân của mình, có điều kiện tự do chủ động phát triển, để cạnh tranh với nhau và với thế giới, mà về mặt xã hội cần phải tạo ra một môi trường và không khí tự do phóng khoáng, qua các phương tiện thông tin đại chúng. Để được vậy thông tin cần phải có nhiều luồng, nhiều khuynh hướng để cho dại chúng, tự do lựa chọn. Cũng như thị trường cần có nhiều mặt hàng để cho người tiêu thụ mua sắm. Nếu nhà nước cần có tiếng nói để bảo vệ chủ trương chính sách của mình, thì vẫn có thể duy trì một hệ thống thông tin cho riêng mình. Chứ không thể giữ mãi độc quyền thông tin như hiện nay. Phải để cho Tư Nhân Tự Do ra báo. Thật cũng khó cho cộng đảng vốn không có quan niệm thông tin trong sáng rộng mở, mà chỉ có quan niệm và chủ trương tuyên truyền dối trá. Việc Nguyễn Tấn Dủng ra chỉ thị 37 thì đó là hành động vô chính trị. Trái với những ý tốt đẹp mà doanh nhân quốc tế dành cho Dũng. Nhất là trong khi đó Dũng còn được đảng trao cho chức vụ cầm đầu ủy ban Chống Tham Nhũng của Nhà Nước và Đảng. Đây là cơ hội cho Dũng chứng tỏ khả năng lãnh đạo của mình, ở thời điểm Việt Nam chuyển mình đi lên. Nhưng Dũng đã bỏ lỡ cơ hội, tự mình bôi mặt làm hề, trình diễn đúng vai tuồng “tên đao phủ’ của nền Tự Do Báo Chí trước dư luận thế giới, bởi cái Chỉ Thị 37 mắc toi kia.
Kinh nghiệm dậy rằng: Những vụ tham nhũng được đưa ra ánh sáng từ trước tới nay, đều có bàn tay của báo chí. Tin tức từ vụ cầu thủ Việt Nam bán độ tại Sea Games 23 năm 2005, đã dẫn tới vụ Bùi Tiến Dũng chơi cá độ lên tới bạc triệu USD, rồi thành vụ tham nhũng khổng lồ PMU-18 trong bộ Giao Thông Vận Tài, làm sụp đổ hoàn toàn uy tín của đảng và chính phủ. Nguyễn Tấn Dũng khi mới lên nhận chức đã tuyên bố hung hăng là phải mau cho đưa vụ PMU 18 ra trước pháp luật, nhưng đến nay vẫn chưa nhúc nhích. Bởi vì nhà nước đã cấm báo chí không đựơc nói tới nữa. Nay với cái chỉ thị 37, Nguyễn Tấn Dũng, mặc nhiên đã trở thành kẻ cầm đầu Hệ Thống Chống Tham Nhũng “Cuội”. Tức là những màn chống tham nhũng, nếu có, cũng chỉ là do sự dàn dựng, nhằm hạ bệ, những kẻ không cùng phe cánh. Hoặc là những con dê đi lạc bị đem ra tế thần. Buộc tính đa nghi của người dân đã bị lừa dối lâu ngày phải nghĩ rằng: Tiền tài từ tay bọn Tham Nhũng rồi sẽ chui sang túi các quan Chống Tham Nhũng.
Xin nhớ cho rằng: Khắc tinh của Tham Nhũng là Tự Do Ngôn Luận. Nơi nào nền tự do ngôn luận bị nhà cầm quyền khống chế, nơi đó Tham Nhũng tự do tung hoành. Tham Nhũng là bản chất tham lam của kẻ có quyền thế. Cộng Đảng độc quyền thống trị đứng trên luật pháp, nắm cả Quốc Hội lẫn Tư Pháp và Báo Chí, nên tham nhũng Việt Nam đã hết “thuốc chữa. Vậy Nguyễn Tấn Dũng muốn chống tham nhũng mà lại xiết báo chí, cấm tư nhân hóa báo chí thì đúng là việc làm đầu voi đuôi chuột. Vậy thì làm sao thị trường Việt Nam hấp dẫn được vốn đầu tư của nước ngoài nữa? Ở đây cần nhắc lại lời của Ngoại Trưởng Condoleezza Rice tuyên bố trong cuộc họp lãnh đạo APEC tại Hanội rằng: “Ngày nay có nhiều doanh nhân cảm thấy mệt mỏi và chán nản với những rủi ro về kinh tế, bởi những hành động chính trị thiếu lương tâm…Ai lai muốn kinh doanh trong một nền kinh tế có các quy định của luật pháp được thực thi một cách bất thường, hoặc không hề được thực thi. Hay ở một nơi nhà nước bị tham nhũng hoành hành…Bởi tham nhũng và thiếu pháp quyền chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế”. Xem vậy việc Cộng Đảng và Nguyễn Tấn Dúng tiêu diệt tự do ngôn luận, không những vô hiệu hóa việc chống tham nhũng, còn làm hỏng kế hoạch thu hút vốn đầu tư quốc tế nữa. `
Little Saigon 05/12/2006
Lý Đại Nguyên
Quốc Hội CSVN vừa phê chuẩn Nghị Định Thư Gia Nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO, ngày 28/11/06, với 444 phiếu thuận, 3 chống, 2 trắng để được chính thức trở thành hội viên thứ 150 của tổ chức này vào ngày 28/12 năm nay. Điều đó không có gì đáng nói. Đáng nói là Nguyễn Tấn Dũng thủ tướng CSVN trình bày rõ quan điểm là: Thực hiện nghiêm chỉnh những gì đã ký kết, không những thế chính phủ sẽ không bảo lưu một số các hạn chế về mở cửa thị trường các ngành dịch vụ cơ bản như bán lẻ, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông… Theo Nguyễn Tấn Dũng, chính phủ chủ trương không lạm dụng những hạn chế mở cửa được WTO đồng ý. Mục đích là để tránh tình trạng ỷ lại, chậm đổi mới. Sự kiện này cho thấy Việt Nam sẽ mở cửa các ngành này sớm hơn các cam kết với WTO và Hiệp Định Thương Mại Việt Mỹ. Đây là điểm son của chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đối với các ông chủ Tư Bản Mỹ và Thế Giới. Là điểm khởi đầu để Việt Nam rút ngắn lại thời gian của 12 năm bị nằm trong nền Kinh Tế Phi Thị Trường. Đúng là đảng Cộng Sản Việt Nam đang hạ quyết tâm tiến mau, tiến mạnh lên Chủ Nghĩa Tư Bản. Y như trước kia đã từng hô: Tiến mau, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ Nghĩa Xã Hội vậy. Ghê quá !
Thực ra, không người Việt Nam nào không muốn triệt để và mau mau đổi mới, nhưng nếu chỉ đổi mới về một mặt Kinh Tế để làm đẹp ý các ông chủ Tư Bản ngoại quốc và có lợi cho một số đảng viên có quyền, có tiền, buộc toàn dân còn bị nhiều trói buộc bới luật lệ và thói hư tật xấu của cái cơ chế hủ bại Chủ Nghĩa Xã Hội chết tiệt hiện nay, mà phải bồng bế nhau lếch thếch, nhếch nhác để bước vào cạnh tranh trong nền Kinh Tế Thị Trường Mở Rộng thì thảm quá! Nói vậy không phải cho việc đốt giai đoạn Kinh Tế Phi Thị Trường là sai, nhưng muốn tiến mau, tiến mạnh, Tiến Vững Chắc lên Kinh Tế Thị Trường thì phải huy động được ý thức, ý chí tự do chủ động và tinh thần trách nhiệm của mỗi người dân đóng góp vào nền Kinh Tế Thị Trường Tự Do Mở Rộng. Chính quyền có nhiệm vụ tạo mọi điều kiện cho Tư Doanh Tự Do Phát Triển. Muốn vậy Nhà Nước Việt Nam phải dứt khoát với thứ chủ nghĩa Mác Lê và tư tưởng Hồ đang là gông cùm của những người cầm quyền. Can đảm viết lại bản Hiến Pháp Tự Do Dân Chủ và bỏ những luật lệ trái với Nhân Quyền. Nhất là chấp nhận những tư tưởng và chính kiến khác mình, để biết tôn trọng Đối Lập.
Chính sự Tự Do Ngôn Luận và những sinh hoạt của các Tổ Chức Xã Hội Dân Sự mới đảm bảo được tính cách Tự Do của Xã Hội. Chính các Đảng Đối Lập nhau trong Chính Trường mới đảm bảo được tính cách sinh hoạt Dân Chủ của Chế Độ. Còn những chế độ mệnh danh là Dân Chủ, tuy có 3 cơ chế Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp, mà bị đặt dưới quyền lãnh đạo độc tài cá nhân, độc tài đảng trị, hay là một Chính Quyền Liên Hiệp, không có các đảng Đối Lập Công Khai với Chính Quyền thì đó là thứ Dân Chủ Giả Hiệu. Nhân loại đã phải trả giá quá đắt cho các cuộc Cách Mạng đưa đến các chế độ độc tài bạo trị. Không may cho Việt Nam vì phải chống với Thực Dân, nên trong quá khứ đều xuất hiện các Đảng Cách Mạng Bí Mật mưu đoạt chính quyền. Đến khi Việt Minh cướp được chính quyền thì cho ra đời thứ Chính Phủ Liên Hiệp, để rồi tìm cơ hội tiêu diệt hết các đảng khác lý tưởng, thâu tóm chính quyền về tay Việt Minh. Chưa có thời nào các Chính Đảng có cơ hội Đấu Tranh Chính Trị Công Khai. Chỉ có ở vào cuối thời Đệ Nhị Cộng Hòa tại Miền Nam Việt Nam mới chớm xuất hiện trong Nghị Trường có khối Dân Biểu Đối Lập, nhưng vẫn chưa đủ sức thành Đảng Đối Lập. Chính vì vậy mà Việt Nam chưa thời nào có được một Chế Độ Dân Chủ bền vững.
Do tinh thần vô úy của những tu sĩ kiên cường vận động cho Tự Do Tôn Giáo, suốt từ ngày Cộng Sản chiếm Miền Nam không ngừng nghỉ, đã tác động, tạo cơ duyên cho các người trước đây theo cộng sản đối kháng với chế độ, và những người không cộng sản, minh danh, công khai xuất hiện. Đến nay đã trở thành phong trào dân chúng Đấu Tranh Tự Do Dân Chủ cho Việt Nam rộng khắp các mặt nhân sinh là Tự Do Tôn Giáo, Tự Do Chính Đảng, Tự Do Nghiệp Đoàn, Tự Do Ngôn Luận, tất cả đều xuất hiện công khai, minh danh, minh bạch. Tức là về phía người dân Việt Nam đã ý thức được nhu cầu phải Đấu Tranh Chính Trị Công Khai Bất Bạo Động nhằm Dân Chủ Hóa Chế Độ, bỏ lại đằng sau quan niệm Đấu Tranh Cách Mạng Bí Mật Bạo Động cướp Chính Quyền. Ở đây đánh dấu sự trưởng thành của ý thức chính trị nơi người dân Việt Nam. Nhưng tiếc rằng Cộng Đảng và nhà cầm quyền Hànội vẫn còn u mê ngoan cố, chưa biết nắm lấy cơ hội lịch sử này, êm đềm thực hiện Dân Chủ Hóa Chế Độ. Vẫn tưởng rằng có thể theo đuổi mãi chính sách của quan thầy Trung Cộng là, đảng cộng sản độc quyền chính trị để làm kinh tế thị trường, biến Cộng Đảng trở thành Công Ty Tư Bản Tài Phiệt Man Rợ hợp tác với Tư Bản Ngoại Quốc, bóc lột sức lao dộng rẻ mạt của toàn dân. Tạo ra hố cách biệt giầu nghèo quá sâu rộng trong Xã Hội. Nhân cuộc họp Thượng Đỉnh APEC, nhà cầm quyền CSVN lấy cớ giữ an ninh cho hội nghị, đã đàn áp, dùng mọi thủ đoạn thâm độc ngăn không cho Báo Chí, Chính Khách nước ngoài gặp những người đấu tranh cho dân chủ và tôn giáo, đến nay vẫn tiếp tục chưa chịu buông tha.
CSVN chưa biết rằng, khi bước vào Kinh Tế Thị Trường, với chính sách của Hoa Kỳ quyết liệt Nhập Nội Việt Nam, mau chóng đổ vốn đầu tư vào đây, nhằm biến Việt Nam thành Thị Trường có tầm cỡ ngăn nổi sự Bành Trướng của Trung Cộng ở Đông Nam Á, thì việc đầu tiên là phải mở rộng và minh bạch Thông Tin, khi đó lập tức các ý kiến, các khuynh hướng trái ngược nhau trong dân chúng xuất hiện. Nếu chính quyền vẫn chiếm độc quyền chính trị, dùng phương pháp đàn áp cấm cản như hiện nay, sẻ đẩy những người đấu tranh chính trị công khai vào thế cách mạng bí mật, nhằm khai thác những bất mãn của dân chúng về những bất công xã hội, phân cách giầu nghèo, làm thành một cuộc cách mạng dùng sức mạnh tòan dân cướp chính quyền tạo lập một chế độ mới. Nếu may mắn thời điểm đó, có được những bộ óc sáng suốt giống như các nhà lập quốc Hoa Kỳ sau khi tranh đấu dành độc lập, đã viết ra bản hiến pháp dân chủ thực sự trên thế giới, xây dựng lưỡng đảng cầm quyền và đối lập, tạo ra chế độ tự do dân chủ bền vững và luôn luôn tự hòan chỉnh, thì quả là may mắn cho dân tộc Việtnam, nếu không sẻ rơi vào tình trạng nhiểu lọan khổ đau chưa biết đến bao giờ chấm dứt.
Little Sàigòn 28-11-2006.
Lý Đại Nguyên
Đã quá rõ, Tổng Thống George W.Bush và chính quyền của ông, đã tận dụng cơ hội về sự có mặt của các nguyên thủ quốc gia Tầu, Nga, Nhật, Úc, ASEAN và các nước ven bờ Thái Bình Dương, gồm cà bạn mới, bạn cũ, lẫn đối thủ đáng gờm, trong cuộc họp Thượng Đỉnh APEC 14, để nói lên và thực hiện chính sách quyết tâm “nhập nội” Việt Nam của mình. Vì vậy, mà Chính Quyền Mỹ đã mở đường cho Việt Nam vào WTO trước khi Quốc Hội Mỹ biểu quyết cho Việt Nam hưởng quy chế Thương Mại Bình Thường Vĩnh Viễn – PNTR. Rồi sau cuộc bầu cử mà Đảng Cộng Hòa của ông Bush mất quyền kiểm soát Lưỡng Viện Quốc Hội, thì ngay trong phiên tái nhóm của Hạ Viện chưa mãn nhiệm đã đưa vấn đề PNTR cho Việt Nam ra biểu quyết với thủ tục không thảo luận, nên đã không đạt nổi túc số tuyệt đại 2/3 phiếu thuận, thế là TT Bush đến Việt Nam chỉ có món quà, rút tên Việt Nam ra khỏi danh sách các nước cần quan tâm dặc biệt về tự do tôn giáo – CPC – vốn nằm sãn trong tay Bộ Ngoại Giao.
Thế là dư luận người Việt trong, ngoài nước và những tổ chức Xã Hội Dân Sự khắp nơi trên thế giới tỏ ra ngao ngán, nghi ngờ quyết tâm Dân Chủ Hóa Toàn Cầu của TT Bush, và thấy rõ là Hoa Kỳ đặt vấn đề kinh tế lên hàng đầu. Thực trạng Việt Nam thì có 2 vấn đề nổi bật hết thuốc chữa là vi phạm Nhân Quyền và nạn Tham Nhũng. Chính tham nhũng mới là nguyên nhân làm sụp đổ chế độ. Nếu Mỹ có xem nhẹ vấn đề Nhân Quyền, mà đặt nặng vấn đề Chống Tham Nhũng, thì cội nguồn của tham nhũng là Cộng Đảng VN cũng sẽ gặp nạn. Qua bài diễn văn được trông đợi nhất trong cuộc họp của các nhà lãnh đạo APEC tại Hanội của Ngoại Trưởng Mỹ Condoleezza Rice, đọc trước các Giám Đốc Điều Hành APEC, về việc chuẩn bị cho một Thị Trường Tự Do với mối đe dọa của Nạn Tham Nhũng, tuy không gọi đích danh CSVN ra, nhưng người nghe đều hiểu là Ts Rice nhắm vào cơ chế tham ô của Việt Nam như: “Ngày càng có nhiều doanh nhân cảm thấy mệt mỏi và chán nản với những rủi ro về kinh tế, bởi những hành động chính trị thiếu lương tâm. Và lý do dẽ hiểu. Ai lại muốn kinh doanh trong một nền kinh tế có các quy định của luật pháp được thực thi một cách bất thường, hoặc không hề được thực thi. Hay ở một nơi nhà nước bị tham nhũng hoành hành. Đấy là một lãnh vực mà chúng ta cần hợp tác cùng nhau. Bởi tham nhũng và thiếu pháp quyền chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế dối với các nền kinh tế phát triển và những nền kinh tế sẵn sàng gia nhập vào hệ thống kinh tế quốc tế để đem lại lợi ích cũng như sự thịnh vượng cho toàn dân của họ” Ngoài ra Ts Rice cũng nhấn mạnh rằng: “Mở mang năng lực thương mại của Người Việt Nam là trọng tâm trong chính sách tăng cường quan hệ giữa Hànội và Washington…chính phủ Hoa Kỳ sẽ tiếp tục muốn Việt Nam có trách nhiệm về những vấn đề Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo.” Những doanh nhân Việt Nam có mặt hết sức tán thưởng về phát biểu của ngoại trưởng Rice, với hàng loạt vỗ tay.
Trong tuyên bố chung Việt Nam và Hoa Kỳ có đoạn viết: “Tổng Thống George W. Bush thông báo về Chiến Lược An Ninh Quốc Gia của Hoa Kỳ, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tôn trọng đầy đủ các quyền con người và các quyền tự do cơ bản đối với hòa bình thế giới, cũng như đối với sự phát triển ổn định của mỗi quốc gia. Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết thông báo cho Tổng Thống George W. Bush về các luật quy định mới được ban hành vế tự do tôn giáo cần được thực thi tích cực tất cả các địa phương của Việt Nam. Hai nhà lãnh đạo cũng ghi nhận tầm quan trọng của việc tiếp tục đạt tiến bộ trong đối thoại song phương về quyền con người và tái khẳng định rằng, đối thoại cần được tiến hành một cách toàn diện, xây dựng và có kết quả”. Với thứ Pháp Lệnh Tôn Giáo vừa mới ban hành tại Việt Nam, thì các tôn giáo Việt Nam vẫn bị nằm trong quy chế “xin cho” so với nền tự do tôn giáo được Tu Chính Án Số I của Hoa Kỳ, ban bố thi Washington còn phải tốn công đối thoại với Hànội cho tới ngày chế độ cộng sản tai Việt Nam biến mất trên cõi đời này mới có kết quả.
Trong 12 năm Việt Nam bị Mỹ và WTO đặt ở mức nền Kinh Tế Phi Thị Trường, thì việc giao thương của Việt Nam còn lệ thuộc vào các hiệp ước song phương, chưa được hưởng quy chế bình đẳng như các hội viên có nền Kinh Tế Thị Trường toàn diện. Ở giai đoạn này, các nhà đầu tư phải trông vào sự đảm bảo cực mạnh nơi chính quyền của họ. Trong phiên họp đầu tiên của các nhà lãnh đạo APEC, TT Bush đã ví “Việt Nam như một con Hổ trẻ” Đúng với sự đánh giá của giới tài phiệt và dư luận thế giới về một nền kinh tế năng động, phát triển đứng hàng thứ 2 sau Trung Cộng ở khu vực. Có nghĩa là ông Bush ra sức hô hào doanh nhân Mỹ bỏ vốn đầu tư vào Việt Nam, trong cơ hội vàng son này. Nhờ vậy mà ngay trong thời gian hội nghị, giới đầu tư quốc tế đã ký với Việt Nam những hợp đồng đầu tư lên tới 2 tỷ USD, trong đó Mỹ chiếm tới 1.4 tỷ USD. Việt Nam đang trở thành một môi trường cạnh tranh quyết liệt của tư bản thế giới. Thật đáng ngại, vì ở một đất nước chưa Dân Chủ Hóa, mà chính quyền lại thối nát, vô tư cách, không đặt quyền lợi toàn dân lên hàng đầu, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của tổ quốc và danh dự dân tộc có giá trị thiêng liêng, như CSVN hiện nay, thì doanh nhân nước nào bỏ vốn đầu tư vào đây nhiều, thì nước đó mặc nhiên thành ông chủ lớn trong số những ông chủ ngoại quốc. Từ lâu chính quyền CSVN đã học sách làm kinh tế của Trung Cộng, sãn sàng bán rẻ sức lao động của toàn dân để thành giầu có.Thế nên trong 12 năm Việt Nam bị nằm trong danh sách nền Kinh Tế Phi Thị Trường, mà chính quyền vẫn trong tay CSVN thì hố ngăn cách giầu nghèo trong xã hội sẽ không khác gì ở Trung Hoa hiện nay.
Đấy là mầm mống của động loạn xã hội. Vậy thì nói gì tới việc tạo thành bãi đáp an toàn cho những nhà đầu tư ngoại quốc tại Hoa Lục chuyển vốn sang thị trường Việt Nam. Nói gì đến một nền kinh tế năng động phát triểu tiêu biểu cho toàn vùng, Nói gì đến cái gọi là chiến lược “ngăn bành trướng” của Mỹ. Chẳng lẽ việc trở lại Việt Nam bằng sức mạnh kinh tế lần này, Hoa Kỳ lại rơi vào hố thảm bại như lần đem quân đội vào Việt Nam trước đây sao? Xin hãy thử nghĩ coi, với sức mạnh của một siêu cường kinh tế, với sự tính toán chính xác của óc thực dụng Mỹ, mà sử dụng phương pháp “nhập nội” cận chiến với bọn tư bản lạc hậu tham lam Việt Cộng trên kinh trường Việt Nam thì thắng bại về ai đã rõ. Nhưng Việt Cộng chết, đâu phải một mình chúng chết, chúng còn kéo theo toàn thể dân tộc xuống bùn mới là khổ. Con đường mà toàn dân Việt Nam phải tự cứu mình là quyết liệt đấu tranh giành lại các quyền tự do, buộc nhà nước phải Dân Chủ Hóa chế độ, tạo điều kiện cho Quốc Dân chủ động gia nhập tiến trình Toàn Cầu Hóa. Đây cũng là hướng tiến tới của Hoa Kỳ và Thế Giới. Nhờ đó Kinh Tế Việt Nam sẽ phát triển vững mạnh, sớm thoát ra khỏi danh sách của nền Kinh Tế Phi Thị Trường.
Little Saigon 20/11/2006.
Lý Đại Nguyên
Trong phiên họp với thủ tục đặc biệt ngày 13/11/06, Hạ Viện Hoa Kỳ đã không thông qua dự luật cấp quy chế PNTR -Thương Mại Bình Thường Vĩnh Viễn cho Việt Nam. Nhân đây, Dân Biểu Zoe Lofgren đã phát biểu:“Tôi là người luôn ủng hộ Mậu Dịch Quốc Tế, nhưng tôi biết rằng, chính quyền Việt Nam phải sửa đổi đường lối của họ để hợp với một cuộc giao thương tốt đẹp với Hoa Kỳ. Tôi báo động cho biết là, vấn đề Bình Thường Hóa Mậu Dịch, mà không đòi hỏi phía Việt Nam phải tôn trọng Nhân Quyền, Tự Do Ngôn Luận, Tự Do Tôn Giáo là một sai lầm của nước Mỹ. Nước Mỹ là một nước có truyền thống lâu đời tôn trọng và bảo vệ Tự Do và Nhân Quyền khắp nơi trên thế giới, đặc biệt đối với những nước mà chúng ta bình thường hóa mậu dịch. Chúng ta không thể cho phép Việt Nam là một trường hợp ngoại lệ. Ở thời điểm này, thời điểm mà chúng ta phải tiêu hao từ 8 đến 10 tỷ USD trong một tháng, cũng như máu của những Quân Nhân Nam Nữ Hoa Kỳ đang đổ ra để mong đem tới sự Tự Do Dân Chủ cho nước Iraq, nhưng tại sao chúng ta lại thất bại đối với sự cổ súy Nhân Quyền cho Việt Nam???”
Lời phát biểu của Dân Biểu Zoe Lofgren nói lên thật đầy đủ quyết tâm của những người Mỹ có lòng đối với toàn dân Việt Nam. Hiện nay nhà cầm quyền Cộng Sản Hànội vẫn đi trên còn đường Độc Đảng Độc Tài, điều khiển một cơ chế Tham Nhũng Lộng Hành. Chúng dùng mọi thủ đoạn ma lanh nhất để tước đoạt Nhân Quyền, khống chế Ngôn Luận, đàn áp Tôn Giáo. Rồi che mắt thế giới bằng những màn trình diễn lươn lẹo luồn lách, nương vào thế của chính quyền Mỹ cần phải trở lại Việt Nam, nhằm lập thế chiến lược mới tại Á Chậu Thái Bình Dương. Biết thế, nên CSVN, ngoài thì lấy lòng Mỹ, trong thì xiết cổ Dân. Chính vì thấy Mỹ muốn cho Việt Nam vào WTO đúng dịp Thổng Thống Bush đến dự Hội Nghị Thượng Đỉnh APEC, Qua việc chính phủ Mỹ đã không đợi để Quốc Hội cho Việt Nam hưởng quy chế PNTR đã mở cửa cho Việt Nam vào WTO, kịp với chuyến công du Việt Nam từ 17 đến 20/11/06, của TT Bush. Nên CSVN mới được thể làm càn, cho công an đi lùng sục quấy phá đe dọa, hay bỏ vào nhà thương điên những người bênh vực quyền lợi cho dân khiếu kiện và đòi hỏi Tự Do Dân Chủ. Thậm chí còn dùng biện pháp côn đồ để đánh đập, tông xe vào những người chống đối đi trên đường. Và rồi, lấy cớ là giữ an ninh cho Hội Nghị cấm cản dân chúng tràn xuống đường đón Ông Bà Tổng Thống Bush, giống như trước kia dân chúng Hanội, Saigòn tự động đón Ông Bà Clinton. Đây là một điều đáng tiếc để cho Tổng Thống, Chính Giới, Doanh Nhân và giới truyền thông quốc tế biết tâm tình của người Việt đối với Mỹ bây giời ra sao? Để 2 năm còn lại trong chức vụ Tổng Thống Hoa Kỳ, ông Bush có cái nhìn chính xác về vấn đề Việt Nam hơn. Nhất là, nếu Tổng Thống Bush nhắc lại với người đón chào ông rằng: “Hoa kỳ sẽ không làm ngơ trước tình trạng của các bạn, hoặc tha thứ cho những kẻ áp bức. Khi các bạn đứng lên vì tự do của mình, chúng tôi sẽ đứng về phía các bạn”, thì ông sẽ được nhiệt liệt hoan hô với lòng biết ơn.
Nhưng thật là buồn, khi TT Bush và Ngoại Trưởng Rice đến Việt Nam, ngay sau lúc Đảng Cộng Hòa vừa mất quyền kiểm soát Quốc Hội. Hạ Viện mà Cộng Hòa chưa hết quyền kiểm soát đã không thông qua dự luật cấp PNTR cho Việt Nam. Nên Bộ Ngoại Giao Mỹ chỉ dùng được một món quà: Rút tên Việt Nam ra khỏi danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt ( CPC ) về vấn đề tự do tôn giáo. Trong khi đó thực tế thì cả thiên hạ đều rõ, CSVN vẫn tiếp tục vừa công khai, vừa ngấm ngầm vi phạm quyền Tự Do Tôn Giáo của người dân Việt Nam. Buộc dư luận phải thấy rằng: “Vấn đề CPC đặt ra với Việt Nam chỉ là một món hàng nhằm đánh đổi lấy một thứ gì quan trọng đối với Mỹ hơn là vấn đề tự do Tôn Giáo”. Có thể vấn đề đó mà xong, thì vấn đề Tự Do Tôn Giáo đương nhiên phải có. Thế nhưng vấn đề ấy chưa công khai xuất hiện ở thời điểm mà Tổng Thống Bush có mặt tại Việt Nam lúc này.
Chỉ có về mặt thực tế thì việc Việt Nam tổ chức cuộc họp Thượng Đỉnh APEC, trong lúc cầm chắc chiếc vé vào cửa WTO trong tay. Đương nhiên, tư cách Việt Nam trên chính trường quốc tế đã có thế giá. Nhất là được chủ tọa phiên họp thượng đỉnh gốm lãnh tụ quốc tế, nào là TT Bush Hoa Kỳ, ThT Shinzo Abe Nhật, TT Putin Nga, CT Hồ Cẩm Đào Tầu, những tay anh hùng cự phách, xúng xính trong bộ áo dài quốc phục Việt Nam, nhưng lại đồng sàng mà dị mộng. Cùng nhau gặp mặt tại mảnh đất Việt Nam nhỏ bé, để chứng tỏ vị thế phải có của mình. Xem ra Tổng Thống Bush Hoa Kỳ vừa họp thượng đỉnh APEC vừa chính thức viếng thăm Việt Nam, mở ra một giai đoạn mới giao hảo toàn diện giữa Mỹ Việt, với một phái đoàn tháp tùng hùng hậu lên tới cả ngàn người, trong túi nặng trĩu đô la, sẵn sàng tung vào làm ăn tại thị trường Việt Nam. Chắc những tay ranh ma Việt Cộng sẽ tìm mọi cách làm đẹp lòng người Mỹ hơn cả Nga lẫn Tầu. Khi mà tư bản Mỹ đã bỏ nhiều tiền của vào thị trường Việt Nam, thì Quốc Hội Mỹ dù là Dân Chủ, hay Cộng Hòa, sớm muộn gì cũng phải cho Việt Nam hưởng quy chế PNTR. Như vậy, những gì mà Tổng Thống Bush dành cho Việt Nam đều sẽ có.
Nhưng có một điều mà toàn dân Mỹ trông đợi ở Tổng Thống Bush là sẽ nhân thời điểm đến Việt Nam, giải tỏa đi cho họ chứng bệnh tâm kết có tên là “Hội Chứng Việt Nam”, thì xem chừng như chưa đủ cơ duyên. Cũng giống cựu Tổng Thống Clinton, Tổng Thống Bush đến Việt Nam vẫn là bước vào một xã hội cộng sản thống trị. Giao tiếp với giới cầm quyền Việt Nam vẫn là giao tiếp với những người của thế giới khác. Tuy bắt buộc phải cùng hội cùng thuyền, nhưng vẫn phải dè chừng giữ miếng, lơ là sẽ bị đá giò lái ngay. Không thể tận tín với nhau, làm thế nào có thể trờ thành bạn đồng hành lâu dài được. Quả tình nước Mỹ muốn trở lại Việt Nam để cùng toàn dân Việt Nam tiến trên con đường Tự Do Dân Chủ, nhằm hội nhập với tiến trình Toàn Cầu Hóa. Không phải ông Bush, và bộ tham mưu của ông không thấy những điều phải làm tại Việt Nam. Nhưng với thân phận “con lừa”, với những bộ óc bùn của giới lãnh đạo cộng đảng Việt Nam, thì dù Mỹ có đem chân tình ra khuyến cáo, họăc dùng hết áp lực này, tới áp lực khác, nhằm mục đích thúc đẩy Việt Nam sớm Dân Chủ Hóa chế độ, Tự Do Hóa xã hội, Thị Trường Hóa kinh tế, để toàn dân Việt Nam có cơ hội và điều kiện nâng cao kiến thức về khắp mặt chính trị, kinh tế, kỹ thuật, khoa học và văn hóa, để có sự tư tin và năng lực tự do chủ động cạnh tranh công bằng trong môi trường mở rộng, thì cộng sản Việt Nam cũng sợ mất quyền, mất thế, mất phần ăn, mà chẳng dám thực hành. Chính vì vậy, mà Mỹ vẫn chưa trút bỏ nổi của nợ “Hội Chứng Việt Nam” khỏi tâm tư của mình. Đúng là “làm đầy tớ người khôn hơn làm thầy đứa dại”
Little Saigon 14/11/2006
Lý Đại Nguyên
Trong ngày 20/10//06, người viết nhận được 2 email giử trực tiếp cho mình của một nhóm nhân danh là Tăng Ni Phật Tử Phật Giáo Việt Nam vì Dân Tộc từ Hànội: 1-Đơn Kiện Hội Đồng Chỉ Đạo Quỹ Tài Trợ Rafto của thành phố Bergen, Norway. Nội dung khiếu kiện nói, đây là “sự lăng mạ xúc phạm đối với nhân dân VN, xuất phát từ quyết định ngày 21/09/2006, tặng giải thưởng năm 2006, giải tưởng niệm giáo sư Thorols Rafto cho thầy Thích Quảng Độ ở Việt Nam, với ý nghĩa là: Vì suốt 30 năm qua Hòa Thượng đã dũng cảm và kiên trì chống đối ôn hòa chế độ cộng sản Việt Nam, và trở thành biểu tượng cho phong trào dân chủ đang bùng lên trên toàn quốc”. Đồng thời nhóm đó không quên ca tụng công lao của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản đối với Việt Nam. Lên án những người “cùng phe của ông Quảng Độ vẫn kêu ca là tự do chưa đủ, hoặc chưa có tự do”. Cuối cùng đưa ra lời kêu gọi như sau: “chúng tôi chính thức kêu gọi nhân dân Na Uy và toàn thể loài người có lương tri trên toàn thế giới, kêu gọi tòa án tối cao Na Uy, hãy ra phán quyết về sai lầm của Hội Đồng Quỹ Rafto để cảnh cáo Hội Đồng này phải rút lại quyết định của mình như một lời xin lỗi đối với nhân dân VN”
Thật là tội nghiệp cho nhóm người tự nhận là Tăng Ni, Phật Tử Phật Giáo Việt Nam vì Dân Tộc, nếu ở trong nước có được nền Truyền Thông Báo Chí Tự Do thì họ đã biết rằng: Quốc Hội Âu Châu đã ra 2 Nghị Quyết đăt Cộng Sản “ngoài vòng pháp luật” còn nặng nề hơn luật Hoa Kỳ. Một là, Nghị Quyết 1096, có tên: BIỆN PHÁP TIÊU HỦY DI SẢN CỦA CÁC CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI CỘNG SẢN, thông qua vào năm 1996. Hai là, Nghị Quyết 1481, có tên: NHU CẦU QUỐC TẾ LÊN ÁN TỘI ÁC CỦA CÁC CHẾ ĐỘ TOÀN TRỊ CỘNG SẢN, thông qua ngày 25/01/2006. Nghị quyết 1481 mới này của Quộc Hội Âu Châu, nhắm thẳng vào các chế độ cộng sản toàn trị tại một vài quốc gia, mà chúng còn tiếp tục phạm tội ác như Việt Cộng. “Vì vậy, Quốc Hội: a) lên án gay gắt những vi phạm nhân quyền của các chế độ cộng sản, và bày tỏ mối thông cảm, hiểu biết và ghi công các nạn nhân của tội ác này. b) kêu gọi tất cả các đảng cộng sản, hay hậu thân cộng sản trong các nước thành viên của Quốc Hội chưa làm gì để đánh giá lại lịch sử cộng sản và quá khứ của mình, hãy tự xa lánh khỏi tội ác của cộng sản, và hãy minh thị lên án tội ác ấy. c) đòi hỏi cộng đồng quốc tế xác định vị trí rõ rệt của mình về những tội ác ấy”. Vậy, suốt 30 năm, Hòa Thượng Quảng Độ dũng cảm kiên trì chống đối ôn hòa chế độ cộng sản Việt Nam, mà Hội Đồng Quỹ Rafto đã trao cho Ngài giải nhân quyền, là việc làm hợp pháp đối với quốc gia Na Uy và luật Âu Châu. Còn kẻ đi kiện là Nhóm Tăng Ni, Phật Tử Phật Giáo Việt Nam vì Dân Tộc đứng về phía Hồ Chí Minh và Cộng Sản đã phạm quá nhiều tội ác với Dân Tộc, là bất hợp pháp. Kẻ bất hợp pháp đi kiện người hợp pháp, thì chỉ có những bộ óc bùn Việt Cộng mới dám liều lĩnh làm điều đó, còn những Tăng Ni, Phật Tử Việt Nam chân chính của Dân Tộc thì không đời nào bất minh như thế.
Email thứ 2 của nhóm mệnh danh là Tăng Ni Phật Tử Phật Giáo Việt Nam vì Dân Tộc, có đề tài là Liên Minh. Với nội dung lên án Ngài Quảng Độ liên hệ tới Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Đấu Tranh Vì Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền Cho Việt Nam. Gọi tắt là Liên Minh Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam, đã công bố thành lập ngày 16 tháng 10 năm 2006 tại Việt Nam. Cho đó là việc Ngài Quảng Độ dùng tôn giáo làm chính trị. Nhân đây đã đến lúc cần phải minh định vị thế của các tôn giáo trong đời sống chính trị của Quốc Dân. Tôn Giáo không làm chính trị ở vị thế cầm quyền, mà có bổn phận phải làm chính trị của người công dân. Ở nơi nào Tôn Giáo nắm quyền toàn thống bao trùm lên Chính Quyền, nơi đó xã hội rơi vào cảnh lạc hậu tăm tối. Nơi nào Tôn Giáo không khuyến khích tín đồ của mình tự do chủ động dấn thân thực hiện nghĩa vụ công dân, nơi đó chế độ sẽ trở thành độc tài toàn trị. Từ khi cuộc sống ý thức của nhân loại mở màn, xã hội loài người đã xuất hiện 2 thế lực chính trị chủ lực đó là Giáo Quyền và Thế Quyền. Tức là Tôn Giáo và Chính Quyền. Văn minh Ấn Độ, tôn giáo khống chế chính quyền, văn minh Trung Hoa chính quyền khống chế tôn giáo, nên cả 2 xã hội đó lâm vào cảnh chậm tiến hàng mấy thiên niên kỷ. Còn văn minh Âu Mỹ thì 2 thế lực tôn giáo và chính quyền thường xuyên cạnh tranh, lấn vượt nhau, nên xã hội có động lực phát triển mau lẹ. Đến nay, nhân loại đều nhận ra một sự thật là phải tách Tôn Giáo khỏi Chính Quyền, để 2 thế lực Đạo và Đời bổ sung cho nhau, tạo ra một xã hội người hòa thuận tin yêu toàn triển Đức Phật Thích Ca đã rời bỏ ngôi vị Thái Tử, tức là địa vị chính trị lãnh đạo chính quyền để đi tu, tìm đạo giải thoát nhằm cứu người, cứu đời khỏi khổ đau. Nói khác đi Phật Giáo khi thành lập Giáo Hội thì phải tự tổ chức quản trị tập thể mình, để làm phương tiện hoằng pháp trong quảng đại dân chúng, bằng tuệ tâm, với phương pháp tùy duyên ứng xử êm đềm hòa ái, không làm hại người, hư vật. Đây là nghệ thuật chính trị tối cao của một tôn giáo dân lập bị trị, nhằm hướng dẫn và khuyến khích mọi người hoàn thiện nghĩa vụ chính trị công dân của mình. Có nghĩa là Đức Phật đã mở lối để tạo ra một Tôn Giáo Dân Lập hoàn toàn độc lập với Chính Quyền. Vì vậy, Luật Phật truyệt đối không cho phép những người còn tại chức quan quyền được thọ đại giới tỳ kheo. Ấy vậy mà hiện nay Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, do cộng sản thành lập, buộc phải sinh hoạt trong Mặt Trận Tổ Quốc, để làm cộng cụ cho Chính Quyền của cộng đảng độc tài toàn trị khống chế Phật Tử, toàn dân, buộc một số Tăng Sĩ phải trở thành những dân biểu của nhà nước, thì đúng là phản bội lý tưởng của Đức Phật, phạm giới nghiêm trong phải lột áo tu.
Các Tu Sĩ Phật Giáo vẫn có bổn phận chính trị của công dân đối với quốc gia mình. Nguyên tắc của Đạo Phật là cứu khổ, cứu nạn, nên trách nhiệm của hàng tu sĩ và phật tử là phải hy sinh cho đại chúng khổ đau. Tức là thực hiện Hạnh Bồ Tát. Trong hoàn cảnh Việt Nam, cộng sản tước đoạt mọi quyền tự do của cộng dân, đàn áp tôn giáo, bịt miệng truyền thông. Bổn phận của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là phải đòi hỏi Tự Do Tôn Giáo và Nhân Quyền. Nhưng các Tôn Giáo ở Việt Nam chỉ thực sự có tự do khi Việt Nam có Tự Do Dân Chủ. Nên ngày 21/02/2001, nhân dịp giỗ tổ Hùng Vương, thừa lệnh của Hội Đồng Lưỡng Viện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hòa Thượng Thích Quảng Độ, nhân danh Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, đã công bố “LỜI KÊU CHO DÂN CHỦ VIỆT NAM.” Trong đó có đề nghị thành lập Liên Minh Dân Tộc. Đến nay lời kêu gọi đó đã được đáp ứng. Nên Ngài Quảng Độ đã đưa ra lời chúc với Liên Minh này rằng: “Chúng tôi hy vọng tòan thể Dân Tộc Việt Nam sớm thực hiện được khát vọng Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền của mình”.Nhưng dù sao, đây cũng là một Liên Minh Chính Trị Đảng Phái để tiến tới xây dựng một Chính Quyền Dân Chủ, nên Giáo Hội Phật Giáo Dân Lập, chủ trương độc lập với chính đảng và chính quyền không thể là thành viên của bất cứ Liên Minh Chính Trị Đảng Phái nào.Tuy vậy, Phật Giáo Thống Nhất vẫn ở trong tư thế một tập thể xã hội dân sự, tranh đòi Tự Do Tôn Giáo để tương tác cho các lực lượng đấu tranh Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền cho Việt Nam khác, và Giáo Hội luôn luôn tôn trọng việc Người Phật Tử tại gia có quyền chủ động tham gia các tập thể chính trị công dân nào, mà họ tự do chấp nhận.
Little Saigòn 24-10-2006.
Lý Đại Nguyên
Không riêng Hàn Cộng, mà còn nhiều nước lớn nhỏ trên thế giới cũng đều nuôi tham vọng trở thành cường quốc nguyên tử. Nên thế giới, nhất là Hoa Kỳ từ lâu nay đã đưa ra chủ trương ngăn cấm phổ biến võ khí hạt nhân, để khỏi lọt vào tay các nước hung đồ khủng bố, hay rơi vào tay các nước còn hận thù nhau, nhằm tránh một cuộc chiến nguyên tử không kiểm soát nổi. Tuy vậy ngoài các nước Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Tầu là những cường quốc nguyên tử đã thủ đắc thứ vũ khí khủng khiếp này trong thời chiến tranh lạnh, Pakistan, Ấn Độ là 2 nước mới đây đã chính thức công khai sản xuất thứ vũ khí quái ác này, và mặc nhiên được công nhận là 2 quốc gia nguyên tử. Riêng Do Thái thì vẫn nằm trong danh sách nghi vấn là có vũ khí nguyên tử. Nay đến Hàn Cộng, vào đúng 10giờ30 sáng 09/10/2006 đã cho nổ thử một quả bom nguyên tử đầu tiên, để trở thành nước thứ 9 có thứ vũ khí nguy hiểm này. Đây là tấm gương xấu cho Iran quyết tiến hành tinh chế Uranium để trở thành cường quốc Hồi Giáo nguyên tử Trung Đông. Đấy là chưa kể tới Nhật Bản, Nam Hàn cũng khó cưỡng lại bị cuốn vào vòng sản xuất vũ khí nguyên tử. Dù tân Thủ Tướng Nhật, Shinzo Abe đã lên tiếng khẳng định, ông vẫn duy trì Nhật là nước phi hạt nhân. Cả thế giới đều công phẫn phản đối Hàn Cộng. LHQ lên án, Hôi Đồng Bảo An chuẩn bị giải pháp trừng phạt. Riêng Anh, Mỹ thì muốn dùng biện pháp cấm vận theo Điều 7 của Hiến Chương LHQ, có cho phép dùng đến phương tiện quân sự cưỡng hành. Một nước duy nhất là Iran ủng hộ Hàn Cộng.
Trước khi cho nổ thử nguyên tử 20 phút, Hàn Cộng có báo cáo cho Trung Cộng đàn anh của mình, Trung Cộng lập tức thông báo cho Washington, Tokyo, Hán Thành cùng biết, xem đây như là một hành động vô can. Và trong cuộc gặp làm hòa giữa Shinzo Abe – Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo hôm trước tại Bắc Kinh, 2 bên đã lên tiếng nghiêm khắc cảnh báo Bắc Hàn không nên thử bom nguyên tử. Nhưng đúng lúc Thủ Tướng Nhật, Shinzo Abe có mặt tại Hán Thành, bắt tay thân thiện với TT Roh Moo-hyun, thì Hàn Cộng cho nổ bom. Đây là một hành động khiêu khích có dụng ý, vì từ nhiều năm nay, 3 nước Nhật, Trung Cộng, Đại Hàn, bang giao không thuận thảo, áp lực đối với Hàn Cộng không quyết liêt, nên cuộc họp 6 bên Mỹ, Nga, Tầu, Nhật và Nam Bắc Hàn dậm chân tại chỗ. Nay, nếu Nhật, Tầu, Nam Hàn hòa giải với nhau, thì Hàn Cộng khó thoát khỏi sự khống chế của Bắc Kinh để phải tuân hành giải pháp phi hạt nhân, để rồi từ đó ngoan ngoãn nằm trong vòng tay của đàn anh Trung Cộng.
Thực ra thì khi nhà tỷ phú Dương Bân gốc Hoa, hứa xây dựng cho Hàn Cộng một thành phố kinh tế sát biên giới Trung Hoa, có tầm vóc quốc tế để lấy thế đón nhận đầu tư nước ngoài, bị Trung Cộng bắt bỏ tù và tịch thu cơ sở làm ăn tại Hoa Lục, thì Kim Chính Nhất lãnh tụ Hàn Cộng đã thấy được âm mưu của Trung Cộng là không muốn cho nước mình thoát cảnh nghèo hèn, mà vĩnh viễn phải nhận viện trở của Bắc Kinh để sống cầm hơi, hoạt động ngoài vòng kiểm soát quốc tế, làm nơi trung chuyển giao dịch vũ khí và xuất khẩu nguyên tử, hỏa tiễn cho các nước Hồi Giáo và các nhóm khủng bố thù địch của Mỹ. Chính nhờ vậy mà Hàn Cộng nghiễm nhiên có kỹ thuật và xưởng chế tạo hỏa tiễn, nguyên tử, từ các nguồn cung cấp của Trung Cộng, Pakistan và Nga. Rồi bị Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước Âu Châu cô lập. Bắc Hàn rơi vào nạn đói toàn dân, đành phải nhận viện trợ của Nam Hàn, Nhật, Mỹ với điều kiện ngưng sản xuất thiết bị nguyên tử, để đổi lấy viện trợ lương thực. Tiếp đến cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu nổ ra. Chiến tranh Afghanistan, Iraq làm cho phong trào khủng bố bị phân tán. Các nước Trung Đông không nhập cảng các thiết bị hỏa tiễn, nguyên tử nữa, Hàn Cộng vừa bị mất thế, vừa bị cô lập. Đồng thời bị ép buộc vào bàn đàm phán 6 bên, viễn ảnh sẽ vẫn nằm trong sự khống chế của Trung Cộng.
Biết rõ như thế, nên Kim Chính Nhất đã áp dụng phương pháp “Chí Phèo”, bắn hỏa tiễn, thử nguyên tử, quyết phá ngang hội nghị, đòi nói chuyện trực tiếp tay đôi với Mỹ, không chịu qua trung gian của Trung Cộng. Nhưng rất buồn cho Hàn Cộng là Mỹ không muốn qua mặt Trung Cộng trong vấn đề Hàn Quốc. Có thể do các cuộc thỏa hiệp ngầm từ hội nghị Bàn Môn Điếm 1953 chia đôi Triều Tiên còn dây dưa. Cũng có thể là do thế chiến lược của Hoa Kỳ tại Á Châu Thái Binh Dương cần một đối trọng có thể kiểm soát được, đành phải đề cho Trung Cộng có vai vế của một cường quốc, nên Mỹ không vội gì mà gánh lấy gánh nặng Bắc Hàn. Chính vì vậy, mà Mỹ đã tích cực hỗ trợ cho chủ trương Ánh Sáng Vừng Thái Dương của Nam Hàn, nhằm tiếp tay cho Bắc Hàn tự phát triển kinh tế. Vì chỉ khi nào Bắc Hàn phục hồi nổi kinh tế, đi vào tiến trình Dân Chủ Hóa để dân chúng 2 miền chủ động thống nhất đất nước trong hòa bình, thì mới thoát khỏi cảnh Nhược Tiểu Quốc do các Cường Quốc sai xử.
Trong thế giới thời đại, thì các Nhược Tiểu Dân Tộc chỉ có con đường duy nhất là phải Tự Do Hóa Xã Hội. Thị Trường Hóa Kinh Tế, Dân Chủ Hóa Chế Độ thì mới chuyển đổi thân phận nhược tiểu thành cường quốc, dù cho là dân ít, nước nhỏ như Singapore. Hiện nay Nam Hàn là một cường quốc dân chủ kinh tế, đựơc cả thế giới nhìn nhận. Ngoại Trưởng Nam Hàn, Ban Ki-Moon vừa đựơc bầu làm Tổng Thư Ký LHQ. Còn Bắc Hàn dù có thủ đắc hỏa tiễn, nguyên tử, nhưng dân đói, nước nghèo, sống trong chế độ cộng sản độc tài sắt máu, lãnh đạo bởi một tên điên khùng tăm tối, gây thù với khắp thế giới, thì không những mãi mãi bị các bàn tay bên ngoài chi phối, thân phận nhược tiểu vẫn hoàn nhược tiểu. Nếu lúc nào đó, bị dồn nén bức bách đến độ phát khùng, bắn hỏa tiễn, liệng nguyên tử lung tung, thì cũng chỉ là hành động tự sát. Chủ trương của Kim Chính Nhất muốn vượt thoát khỏi bàn tay nham hiểm của Trung Cộng là điều đáng khen, hơn hẳn bọn lãnh đạo Cộng Đảng Việt Nam u mê, sìu sìu, ển ển, có thật đầy đủ điều kiện vựơt khỏi số phận nhược tiểu quốc, do Hoa Kỳ đưa lại, mà chỉ vì quyền lợi cá nhân và đảng, nên không dám dứt khoát nắm lấy thời cơ. Nhưng với phương pháp dùng hỏa tiễn, nguyên tử để buộc Hoa Kỳ và thế giới phải nhượng bổ yêu sách của mình là việc làm bất trí của Kim Chinh Nhất, chưa biết thân phận dân tộc mình vẫn chỉ là quân cờ thí trong tay các cường quốc, vẫn còn bị ràng buộc bới các loại mật ước đen tối, cho nên chỉ làm khổ dân, dẫn tới chết thân mà thôi.
Little Saigon 10/10/2006.
Lý Đại Nguyên
Hy vọng của Việt Nam được gia nhập Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế -WTO- trước cuộc họp thượng đỉnh APEC vào ngày 18-19/11/2006, có sự tham dự của Tổng Thống Mỹ, Geoge W. Bush, xem ra quá khó rồi. Mặc dù Mỹ muốn để ông Bush tặng cho Việt Nam một món quà đáng giá trong cuộc chính thức thăm Việt Nam. Nhưng trở ngại lớn nhất vẫn nằm ở phía Việt Nam. Đảng Cộng Sản Việt Nam ngoài mặt tuy chứng tỏ có nhiều cố gắng muốn được vào WTO, nhưng thực tế lại ngấm ngầm ra lệnh cho công an áp dụng mọi thủ đoạn đàn áp tôn giáo, sách nhiễu những người lên tiếng đòi tự do dân chủ trong ôn hòa, khiến cho Lưỡng Viện Quốc Hội Mỹ không dám tiến hành các cuộc bỏ phiếu cho Việt Nam được hưởng Quy Chế Thương Mại Bình Thường Vĩnh Viễn - PNTR – trước cuộc bầu cử bán phần vào 07/11/06. Vì sợ cử tri Mỹ lên án các Nghị Sĩ, Dân Biểu của họ là đã thưởng cho chế độ độc đảng, độc tài, tham nhũng đàn áp tôn giáo, vi phạm nhân quyền, rồi làm sai lạc kết quả cuộc bầu cử giữa 2 đảng Cộng Hòa và Dân Chủ.
Đối với Quốc Dân Mỹ thì Tu Chính Án Số I, đầu tiên 1791 của Hoa Kỳ, là đạo luật Hiến Pháp tối cao được áp dụng triệt để, nên đã trở thành nếp sinh hoạt chính trị phổ biến nơi mọi người. Bởi vậy, Quốc Hội, Chính Quyền của Mỹ, hay bất cứ Quốc Gia nào vi phạm những điều đã ghi trong đó, đều bị dân chúng Mỹ lên án. Điểm đặc biệt Tu Chính Án Số I là cấm Quốc Hội làm luật, mới là thần kỳ trái khuáy, vì chính nó là một đạo luật, không cho phép một đạo luật nào khác xâm phạm vào những khoản mà Tu Chính Án Số I đã quy định và quyết nhận đó là quyền đương nhiên của mỗi công dân sống ở Mỹ được hưởng. Toàn văn Tu Chính Án Số I chỉ ngắn gọn như sau: “Quốc Hội sẽ không được làm luật thành lập tổ chức tôn giáo, hoặc để cấm đoán quyền tự do tôn giáo, hay giới hạn quyền tự do ngôn luận, hoặc báo chí, hay quyền tụ họp của người dân một cách ôn hòa, và quyền thỉnh nguyện thư lên chính quyền để khiếu nại những việc cần được chính quyền làm sáng tỏ”. Tóm lại Tu Chính Án Số I của Mỹ đặt 4 quyền căn bản của Con Người lên hàng tối thượng, mà luật pháp phải bảo vệ, và quyền lực nhà nước không được xâm phạm, đó là Quyền Tự Do Tôn Giáo. Quyền Tự Do Ngôn Luận. Quyền Tự Do Tụ Họp. Quyền Tự Do Khiếu Kiện. Nhưng cả 4 quyền này ở Việt Nam hiện nay đều đã bị Đảng, Chính Phủ, Công An cộng sản vi phạm trầm trọng như cơm bữa. Bảo sao Quốc Hội Mỹ dám làm trái ý dân để bỏ phiếu cho Việt Nam được hưởng quy chế PNTR, trước khi cử tri Mỹ tới phòng phiếu.
Theo phát ngôn viên của Đại Diện Mậu Dịch Hoa Kỳ, ông Sean Spicer, thì. “Chúng ta có những bước tiến với các vấn đề mà họ (VN) phải làm cho phù hợp với luật WTO”. Có nghĩa là luật Cộng Sản Việt Nam chưa đáp ứng được đòi hỏi đúng luật của WTO, nên khó có thể được Tổng Hội Đồng WTO họp ngày 10/10/06 tại Geneva chấp thuận, để trở thành hội viên toàn phần, vào 30 ngày sau khi thông qua bản dự luật để đưa luật pháp Việt Nam phù hợp với luật WTO. Chính vì luật Việt Nam còn quá chênh lệch với luật WTO. Nên Bộ Trưởng Thương Mại, Trương Đình Tuyển của Việt Nam mới đổ bậy nói càn là: “Việt Nam sẽ không gia nhập WTO với bất cứ giá nào” . Đó là ngôn ngữ trịch thượng của bọn cộng sản hãnh tiến đã lỗi thời. Chỉ cốt để vuốt ve tự ái đối với đám lãnh tụ óc bùn, và tỏ ra bất cần vào WTO, nếu tổ chức đó không nhượng bộ yêu sách của Việt Nam. Đối với Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế thì việc các hội viên được quyền tự do, tự chủ tham đự trong luật chơi bình đẳng, công khai, minh bạch. Giống như các đội banh đi dự những giải túc cầu quốc tế. Tất cả phải tôn trọng luật chơi chung duy nhất, nếu không giữ đúng luật thì trọng tài thổi còi phạt, quá lắm bị đuổi khỏi sân. Đâu có chuyện mỗi đội banh lại ra giá cho cuộc chơi chung. Tất cả chỉ có một giá là phải tuân thủ triệt để luật chơi trên sân cỏ. Muốn chơi hay không là ở anh, chứ không phải là ở tổ chức của giải. Muốn chơi cho tốt thì anh phải cố gắng đào tạo tuyển thủ cho thật giỏi, thật có đạo đức và biết tôn trọng kỷ luật cuộc chơi.
Như mọi người đều biết Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế có luật lệ minh bạch công khai, chấp nhận cạnh tranh bình đẳng trong thị trường tự do ở mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Không cho phép các nước hội viên được giới hạn quyền tự do kinh doanh của người dân, đồng thời phải mở rộng thị trường cho tư doanh nước ngoài vào sinh hoạt bình đẳng, và không được quyền bảo hộ mậu dịch dưới bất cứ hình thái nào. Như vậy việc nhà nước Việt Nam bù lỗ cho các công ty quốc doanh phải chấm dứt. Còn đâu là lý tưởng của Nền Kinh Tế Thị Trường theo Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, lấy Công Ty Quốc Doanh làm chủ đạo, nhắm vào việc rút cạn nguồn lợi kinh tế quốc dân, đổ vào túi tham nhũng của đảng và đảng viên có chức có quyền nữa.
Vậy chẳng lấy gì làm lạ, cả 10 năm nay, Việt Nam đã mở ra biết bao cuộc thương thảo song phương với các nước đối tác, để hy vọng được gia nhập WTO, mà cho đến nay vẫn thở ra luận điệu là; “Không cần gia nhập WTO bằng bất cứ giá nào”. Nghĩa là bọn lãnh đạo cộng sản tham ô, rất không muốn vào WTO. Nên từ trước tới nay vẫn không chịu rút kinh nghiệm để tự thay đổi luật chơi của nước mình, cho phù hợp với luật chơi chung của tổ chức. Không tạo cơ hội, khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam tổ chức thành các công ty tư doanh lớn, đủ sức cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Mà vẫn cứ áp dụng lối thương thuyết cù nhầy bớt một thêm hai. Thật là tốn công quỹ của nhà nước.
Để rồi Mỹ phải cho được hưởng quy chế của một Nền Kinh Tế Phi Thị Trường trong 12 năm, sau khi gia nhập WTO. Nghĩa là để cho Việt Nam từ nền kinh tế phi thị trường hiện nay, trong vòng 12 năm phải thành nền kinh tế thị trường thực thụ. Trong 12 năm này Việt Nam vẫn bị nằm trong quy chế song phương với các đối tác. Vẫn bị tòa án các nước đối tác phán xử theo quy chế song phương đã ký kết, không được khiếu kiện tại Tổ Chức WTO, như các hội viên có nền kinh tế thị trường thực thụ. Ở điểm này chính quyền Mỹ đã mắt nhắm mắt mở để cố đưa Việt Nam vào WTO, nhằm tạo điều kiện cho Việt Nam chuyển đồi sang nền Kinh Tế Thị Trường, đồng thời để cho các đại công ty đầu tư của Mỹ đổ vốn vào Việt Nam một cách công khai, thay vì từ trước tới nay Mỹ phải mượn các công ty con của mình ở các nước Á Châu, để sống chung với chế độ chính trị độc tài tham nhũng tại Việt Nam. Trong khi đó, các công ty tư bản Âu Châu, và những người Việt ở nước ngoài vào đầu tư tại Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa, thảy đều đã ôm đầu máu bỏ chạy. Riêng người gốc Việt thì đa số bị vào tù, vì thủ thuật “cho trốn thuế”của cán bộ cộng sản. Nhưng muốn gì thì gì, sớm muộn Việt Nam cũng phải vào WTO, dù cho Việt cộng có vùng vằng cách mấy cũng chẳng nổi.
Little Saigon 03/10/2006
Lý Đại Nguyên
Với những người thực hành Bồ Tát Đạo, như các thầy Huyền Quang, Quảng Độ, thì việc các nước, các tổ chức quốc tế vinh danh, hay trao những giải thưởng cao quý, như giải Rafto cho Ngài Quảng Độ, ngày 21/09/06, thì không tăng, cũng không giảm đức độ uy tín nơi quý ngài. Nhưng đối với công cuộc vận động tự do tôn giáo, nhân quyền và dân chủ hóa Việtnam lại là một sự kiện đầy ý nghĩa. Nhất là Na Uy một trong những nước Bắc Âu, ở cuộc chiến Nam Bắc trước đây, thường có khuynh hướng ủng hộ cộng sản Bắc Việt. Nay trong lời công bố trao giải Nhân Quyền Quốc Tế Rafto cho HT Thích Quảng Độ đã đưa ra nhận định về thực trạng Việt Nam: “Kinh tế được tự do mở rộng, nhưng đất nước vẫn sống dưới chế độ độc đoán. Nhà nước độc đảng không chấp nhận bất đồng chính kiến, hay phê phán thông qua cơ quan truyền thông, đảng phái chính trị, tổ chức tôn giáo, hoặc các công đoàn, mặc dù Việt Nam đã tham gia ký kết Công Ước Quốc Tế về các quyền Dân Sự và Chính Trị”
Chính vì vậy mà Sáng Hội Rafto đã chọn trao giải Nhân Quyền Quốc Tế cho HT Thích Quảng Độ của Việt Nam, với lời công bố: “Hội Đồng Chỉ Đạo quỹ tài trợ Rafto quyết định tặng thưởng năm 2006 Giải Tưởng Niệm Giáo Sư Thorolf Rafto cho một trong những người Việt Nam lỗi lạc nhất đã không ngừng bảo vệ Dân Chủ, Tự Do Tôn Giáo và Nhân Quyền. Hòa Thượng Quảng Độ đoạt giải này, vì suốt 30 năm qua, Hòa Thượng đã dũng cảm và kiên trì chống đối ôn hòa chế độ cộng sản Việt Nam, và trở thành biểu tượng cho phong trào Dân Chủ đang bùng lên trên toàn quốc”… “Hòa Thượng Quảng Độ một sĩ phu lãnh đạo và là thế lực kết hợp nơi quê hương Ngài. Là một tăng sĩ Phật Giáo, học giả và nhà văn, Hòa Thượng đem cả cuộc đời mình phục vụ tận tụy cho công lý thăng tiến, cũng như tiếp nối truyền thống Phật Giáo Bất Bạo Động, khoan dung và từ bi”… “Qua cuộc tặng thưởng hôm nay, Quỹ Rafto mong ước nói lên sự hỗ trợ tất cả những người Việt Nam đang đấu tranh để chuyển hóa ôn hòa sang nền Dân Chủ. Kể từ tháng Tư vừa qua, trên Hai Ngàn công dân đã ký tên vào bản kiến nghị “Kêu gọi cho quyền Tự Do Lập Đảng” và “Tuyên Ngôn cho Tự Do Dân Chủ Việt Nam”… “Những kiến nghị này được ký tên trên bình diện rộng rãi, đến từ các Linh Mục Công Giáo, các Tăng Sĩ Phật Giáo, cựu tù nhân chính trị, cựu viên chức Cộng Sản, cựu đảng viên, giáo sư đại học, giáo viên, y tá, kỹ sư, nhà văn, nhà kinh doanh và nhiều thường dân khác. Ở Việt Nam, riêng sự kiện ký tên vào tài liệu như thế là đã chuốc vào thân sự sách nhiễu, bị bắt bớ và nhiều khi bị cầm tù”.
Sáng Hội Rafto quả đã có nhận định chính xác về thực trạng của những người đang tranh đòi Tự Do Dân Chủ tại Việt Nam, nhưng họ vẫn không sao ngờ được phản ứng về việc trao giải Nhân Quyền cho Hòa Thượng Quảng Độ của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam lại quá thấp kém đến độ, lập tức cử ngay Thứ Trưởng Thường Trực Công An, thượng tướng Nguyễn Khánh Toàn, người đang nắm thực quyền trong hệ thống công an trị của cộng đảng, đến Tu Viện Nguyên Thiều vấn an Đức Tăng Thống Thích Huyền Quang với mục đích khuyên Ngài nghỉ hưu, và rằng : “Nếu Hòa Thượng Thich Quảng Độ có ra thăm, thì Ngài cũng không nên bàn chuyện Giáo Hội”. Sau lời từ hòa cảm ơn về sự thăm viếng của tướng Nguyễn Khánh Toàn, Đức Tăng Thống, trịnh trọng tuyên bố: “Chí nguyện suốt đời tôi là phục vụ dân tộc, phục vụ đạo pháp, phục vụ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cho đến hơi thở cuối cùng. Không ai có thể ngăn cản tôi và Hòa Thượng Thích Quảng Độ bàn chuyện Phật sự của Giáo Hội”. Thế là chủ trương chia rẽ giữa 2 vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội dân lập này của cộng sản một lần nữa bị thảm bại.
Thảm bại nặng nề cho chủ trương khống chế tôn giáo của cộng đảng Việt Nam là ngày 08/09/06, tại Huế, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam công bố Thư Mục Vụ Năm 2006 “Sống Đạo Hôm Nay”. Lần đầu tiên kể từ 1975 đến nay, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam mới chính thức công khai đưa ra nhận định về tình trạng Việt Nam rằng: “Trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam đang bước vào tiến trình toàn cầu hóa, vốn đem lại những tác động tích cực, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức mới cho cả đạo lẫn đời”… “Con người vừa là nạn nhân vừa là tác nhân của hoàn cảnh xã hội. Nếu hoàn cảnh xã hội nhào nặn ra những con người, thì con người mới cũng sẽ dần dần tác động làm nên những hòan cảnh mới”… “Để xây dựng một xã hội công bằng, ngoài việc giáo dục để biết tôn trọng những quyền căn bản của con người cũng cần có một cơ chế thích hợp bảo đảm thực hiện quyền này. Công việc đòi hỏi đóng góp từ nhiều phía”. Kết luận: “Sống trong đất nước có nhiều thay đổi và thách đố, chúng ta được mời gọi sống đức tin cách trưởng thành hơn để có thể dấn thân phục vụ tha nhân cách mới mẻ hơn và góp phần tích cực hơn trong công cuộc xây dựng con người
mới”.
Tuy cả ý và lời của Thư Mục Vụ nhẹ nhàng, nhưng đã đề cập tới việc phải tôn trọng những quyền căn bản của con người và cần một cơ chế thích hợp bảo đảm thực hiện quyền này. Như vậy có nghĩa là Hội Đồng Giam Mục Việt Nam đã mặc nhiên đồng thuận với Lm Nguyễn Văn Lý, các Linh Mục và những Kitô Hữu đã ký tên trong khối 8406. Đòi hỏi nhà nước Cộng Sản Việt Nam phải tôn trọng nhân quyền và thay dổi cơ chế nhằm Dân Chủ Hóa chế độ. Đồng thời đây là thực hiện hiến chế của Công Đồng Vaticanô II 1962, và Tông Huấn của cố Giáo Hoàng John Paul II, 2002, gởi cho Hội Đồng Giám Mục Việt Nam phải giữ tư thế độc lập với thế lực cầm quyền. Khác xa với thái độ ngoảnh mặt đi của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trước lời kêu gọi: “Tự Do Tôn Giáo Hay Là Chết” của Lm Nguyễn Văn Lý trước kia. Để rồi cộng sản không cho ông chết, mà chỉ bỏ tù.
Của đáng tội, khi đó khuynh hướng thiết lập bang giao giữa Vatican và Hànội đang tiến triển khả quan, nên hành động quyết liệt của Lm Lý bị trật khớp, dẫn tới tình trạng phân hóa quyết liệt nơi cộng đồng Kitô Giáo trong và ngoài nước. Nhưng các bậc thượng trí trong Giáo Hội đã nhận ra rằng: Nếu Giáo Hội Hoàn Vũ có thiết lập quan hệ ngoại giao với nhà cầm quyền Hànội, thì số phận của Giáo Dân và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam vẫn phải nằm trong Mặt Trận Tổ Quốc và dưới quy chế “xin cho”. Điều tệ hại hơn nữa Giáo Hội tự biến Giáo Dân mình thành kẻ lạ mặt giữa cộng đồng dân tộc đang là nạn nhân của cộng sản, đang quyết liệt tranh đòi tự do dân chủ cho toàn dân. Như vậy, làm sao hoàn thành được lý tưởng đem đạo vào đời. Nhưng với Thư Mục Vụ 2006, chắc các bạn Kitô Hữu đã thở ra nhẹ nhõm, là đã tìm lại đươc chính mình, tìm thấy được anh em đồng bào, đồng đội trong cộng đồng dân tộc, đang tranh đấu cho Tự Do Dân Chủ Việt Nam.
Little
Little Saigon 26-09-2006.